Nhà kiến trúc Tây học mang cốt cách đạo gia phương Đông

UÔNG THÁI BIỂU 08:58, 24/01/2023

Đó là một ngày của gần ba mươi năm trước, từ Đà Lạt, tôi về TP Hồ Chí Minh tìm ông, kiến trúc sư nổi tiếng Ngô Viết Thụ. Ông là một trong những nhân vật nổi danh mà tôi ngưỡng mộ từ thuở thiếu thời trong những câu chuyện nghe lõm bõm chắp nhặt đâu đó và lưu vào trí nhớ non trẻ…

Lò Phản ứng hạt nhân Đà Lạt - một trong những công trình do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế. Ảnh: Nam Viên
Lò Phản ứng hạt nhân Đà Lạt - một trong những công trình do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế. Ảnh: Nam Viên

Khi tôi đến trước cổng ngôi nhà số 22bis Trương Định, Quận 3 rụt rè bấm chuông, một người phụ nữ nhìn qua khe cửa và nói giọng Huế dịu nhẹ: “Cậu chờ ông chút!”. Khoảng mươi phút sau, KTS Ngô Viết Thụ với trang phục khăn đóng, áo dài, chân đi guốc son, chống gậy trúc bước ra tự tay mở cổng và đón tôi vào. Ông nói: “Tiếp người Đà Lạt nên tôi phải ăn vận tử tế”. Chính sự khiêm nhường và phong thái lịch lãm của vị kiến trúc sư lừng danh đã tạo nên sự gần gũi, thân mật và cởi mở. 
Trong quãng thời gian làm báo của mình, tôi đã được tiếp xúc với không ít nhân vật nổi tiếng, nhưng có lẽ, KTS Ngô Viết Thụ là một trong những chính nhân đã cho tôi mối giao cảm và ấn tượng đặc biệt. Sức thuyết phục trong ông không chỉ là đức độ, tài năng vốn sẵn mà còn là sự hóa giải những điều đó một cách khiêm nhường, hào hoa và nhã nhặn. Nhà kiến trúc nổi tiếng từng nói với tôi: “Tư tưởng phương Đông quan niệm, hình vuông lớn đến tận cùng là không có góc, như cái bánh chưng vuông của người Việt mình lại tượng trưng cho mặt đất bao la”. Tôi đã thấm lời dạy của ông để kiểm soát suy nghĩ và hành vi ứng xử của mình. Vâng, sự hiểu biết và thành công của mỗi con người chỉ là những giới hạn mong manh trong cõi vô cùng. Thái độ khiêm tốn của một người như ông không phải là chiếu lệ, bởi Ngô Viết Thụ là một nhân cách lớn mà những thành công của ông là khao khát, là nguồn cảm hứng của biết bao người…


* * *


Sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Lang Xá (huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế), chàng thanh niên học giỏi nhưng gia cảnh bần hàn ấy đã phải vượt qua rất nhiều gian truân để theo đuổi con đường học vấn. Với ý chí mạnh mẽ, ông đã cố gắng học và đỗ tú tài năm 1948 và sau đó đỗ vào Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt. Tốt nghiệp, ông được du học nước Pháp, được đào tạo chính quy tại Cao đẳng Mỹ thuật Paris rồi Học viện Kiến trúc đô thị Paris. Từ đó, ông là kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên được thừa nhận quốc tế: Năm 1955, mới 30 tuổi, Ngô Viết Thụ đã vượt qua những tên tuổi lớn thế giới để đoạt Giải Khôi nguyên La Mã; ông đã tham gia nhiều đề án kiến trúc ở Pháp, Hoa Kỳ và châu Âu. Năm 1960, Ngô Viết Thụ được nhận phần thưởng danh dự của Học viện Kiến trúc Hoa Kỳ và năm 1962 được bầu làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm Kiến trúc Hoa Kỳ. Nói thêm về Giải Kiến trúc Khôi nguyên La Mã, một giải thưởng ghi dấu ấn quan trọng của Ngô Viết Thụ với giới nghệ thuật kiến trúc thế giới. Ông từng kể: “Tôi sang Ý với sự tuyển chọn của nước Pháp. Gặp thành phố La Mã (Rome) xây dựng từ hơn 2000 năm trước, tôi đã choáng ngợp trước vẻ đẹp, không gian và bố cục tuyệt vời. Đi trên bất cứ con đường nào cũng thấy rõ trung tâm La Mã. Các công trình nổi bật có lâu đài Médicis, Viện bảo tàng Vatican, nhà thờ Saint Pierre de Rome, đấu trường La Mã. Chỉ điểm sơ cũng đủ thấy sự vĩ đại của kiến trúc Hy-La với cảm hứng vừa nên thơ, vừa hùng vĩ. Đi du học mà tôi luôn nghĩ về quê hương nên đã cố công tu luyện và học hỏi. Học những nét cao siêu trong sự sắp xếp, bố cục và xử lý không gian của các trung tâm, các công trình nổi tiếng. Tác phẩm đoạt Giải Khôi Nguyên La Mã, tức “Giải thưởng lớn Roma” (Priemier Grand Prix de Roma) của tôi là họa đồ một thánh đường với sức chứa 40 ngàn tín đồ. Tác phẩm đạt điểm cao nhất với 28 phiếu trên 29 phiếu giám khảo, như một nhà báo Pháp hồi đó viết: “29 phiếu trừ 1”. Dư luận hết sức ngạc nhiên bởi không tin một thanh niên Việt Nam nhỏ bé lại đoại giải thưởng lớn. Trong thời gian ở Ý, tôi đã tổ chức các cuộc triển lãm tại lâu đài Médicis. Các cuộc triển lãm đều có Tổng thống Ý Gronchi, Tổng thống Pháp René Coty chủ tọa; khách mời là ngoại giao đoàn, nhân sĩ trí thức và đông đảo báo giới…”.
Cậu khóa nghèo xứ Huế ấy vào đời và lập nên công danh từ nghị lực, tài năng thiên bẩm và lòng đam mê. Muốn thực hiện điều gì là ông quyết chí làm cho bằng được. Ví như học ngoại ngữ. Ngoài tiếng Pháp, tiếng Anh, ông còn thạo nhiều sinh ngữ khác và học rất nhanh: học ba tháng đã rành tiếng Nhật, sáu tháng xong tiếng Hán và nửa năm đã giỏi tiếng Nga. Ông chơi thuần thục piano, đàn cò và sáo trúc. Trong hội họa, ông để lại hàng trăm bức tranh sơn dầu từ tả thực đến trừu tượng. Ngô Viết Thụ là người đa tài, người khác có được một phần của ông cũng đã đủ làm nên một sự nghiệp.
Lúc sinh thời, ông từng tâm sự với tôi: “Tôi thích khí chất trượng phu của cụ Nguyễn Công Trứ. Tôi mê thơ cụ Nguyễn, thích cái chức Doanh điền sứ của cụ cũng như cái chí khai hoang, lập ấp, lấn biển, dựng nhà, mở mang bờ cõi. Hồi từ nước ngoài về, chính quyền đương thời có mời giữ chức Bộ trưởng Kiến thiết nhưng tôi từ chối, vì nhớ lời dạy của nhạc phụ tôi, cụ Võ Quang Tiềm, người Đà Lạt: Làm thượng thư thì chỉ có một thời, còn giật giải Khôi nguyên để phục vụ đất nước, phục vụ Nhân dân thì thời nào cũng trọng. Bởi vậy, tôi đã kiên quyết từ chối cái sở đoản để thực hiện khát vọng hợp với sở trường”. Ông nghĩ, với nghề kiến trúc, ở những vùng đô thị giàu có là có người phục vụ, còn những vùng nông thôn hẻo lánh ít ai lo. “Bắt chước cái chí của cụ Nguyễn, tôi đã góp chút sức nhỏ để xây dựng, mở mang những vùng đất khó”, ông nói. Hơn 30 đô thị, tỉnh lỵ và thị xã mới tại phía Nam đã được hình thành từ những đồ án quy hoạch của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, trong đó có những vùng xa xôi trên núi rừng Tây Nguyên như Quảng Tín, Vị Thanh, Cheo Reo… đã xuất phát từ khát vọng ấy. Nhà kiến trúc Tây học mang tinh thần đạo gia phương Đông đã từ chối mọi vinh hoa, phú quý để thực hiện những ý tưởng tốt đẹp và theo đuổi đam mê của mình. Cái cốt cách con người ông là sự tỏa sáng của trí tuệ khoa học được kết tinh từ những năm theo đòi học vấn phương Tây hòa kết trong một tinh thần văn hóa Việt Nam và tư tưởng phương Đông. Giữa duy lý và duy cảm trong ông có sự quy hợp, thế nên trong các công trình do ông thiết kế có sự nhất quán về tư tưởng, đó là thấm nhuần và thẩm thấu tư tưởng của cổ nhân trong phương pháp xử lý hiện đại. Ông từng lý giải với tôi: “dùng chất liệu và kỹ thuật kim thời để biểu tả tâm hồn Việt Nam”; hay “phối hợp bình đồ trong kiến trúc rất giống phép hòa âm trong âm nhạc hay gia giảm trong y thuật phương Đông”…
* * *
Ngô Viết Thụ đã chuyển hóa tất cả những tư tưởng mà ông tiếp thu vào công việc sáng tạo của mình một cách phù hợp. Ông là nhà kiến trúc sáng tạo trong tâm thức giải thoát, tự tại, không bị lệ thuộc. Giữa động và tĩnh vẫn giữ được trung chánh. Ông thấu hiểu từ cái cực tiểu đến cái cực đại, từ vĩnh cửu, biến diễn đến thường hằng. Ông luôn ý thức, nhà kiến trúc phải biết tạo nên sự cân bằng, hài hòa giữa con người, công trình với vũ trụ; kiến trúc sư chỉ góp sức tô điểm cảnh quan chứ không thể làm nên cảnh quan và không được phép phá vỡ bố cục của Tạo Hóa. 
 Thật khó liệt kê hết những công trình mà KTS Ngô Viết Thụ tham gia thiết kế và tham vấn, cũng như khó diễn tả đầy đủ những ý tưởng của ông, chỉ xin điểm: Ngoài 30 đồ án quy hoạch khắp các vùng phía Nam là Dinh Độc Lập (Hội trường Thống Nhất), Viện Nguyên tử Đà Lạt (nay là Viện Nghiên cứu hạt nhân), chợ Đà Lạt, Viện Đại học Huế, Phi trường Tân Sơn Nhất, Làng Đại học Thủ Đức, Công trường Mê Linh…; rồi ông tham gia quy hoạch tổng mặt bằng Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thiết kế Ty Thủy lợi Đắk Lắk, Bệnh viện Sông Bé, Khách sạn Century Huế, Trúc Lâm thiền viện Đà Lạt… Ông còn là thành viên Ban Giám khảo quốc tế trong Cuộc thi Thiết kế quy hoạch đô thị Nam Sài Gòn. Hoài bão cuối đời của vị kiến trúc sư tài đức vẹn toàn là thiết kế những ngôi nhà cho người dân Đồng bằng sông Cửu Long tránh lũ. Trên giường bệnh, ông vẫn trăn trở với lời hứa chưa trọn cùng cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt về ước nguyện này…
Hầu hết các tác phẩm của KTS Ngô Viết Thụ đều được tạo nên bởi sự nhất quán về tư tưởng, trong tổng thể chữ “nhất”. Ông nói: “Ngày xưa học chữ Hán, bạn bè hay chọc nhau: “Chữ nhất (–) cũng không biết. Chữ nhất là một gạch, ai cũng biết. Thật ra, để hiểu thấu đáo chữ nhất phải thông thiên văn, đạt địa lý, thấm nhuần triết học, toán học mới lắp ghép tất cả các mảnh rời thành một, hợp nhất tất cả, trong đó có tri và hành. Biết được chữ nhất ẩn chứa rất nhiều, nhưng cũng không cần diễn đạt nhiều. Tôi đã lấy những ý tưởng đó để xây dựng Dinh Độc Lập và nhiều công trình khác”. Ngẫm lời ông, tôi ngắm bức ảnh mà kiến trúc sư Ngô Viết Thụ (người thiết kế và chỉ đạo thi công Dinh Độc Lập) chụp chung với Anh hùng Nguyễn Thành Trung (người ném bom vào Dinh Độc Lập), Anh hùng tình báo Vũ Ngọc Nhạ (người làm việc trong dinh vì là cố vấn nhiều đời Tổng thống Việt Nam Cộng hòa) vào dịp lễ Kỷ niệm 20 năm ngày thống nhất đất nước và thật sự thấm hơn về chữ nhất, hiểu thêm về ý nghĩa lớn lao của hai chữ “thống thất”. Cái chữ nhất đó ở công trình Lò nguyên tử Đà Lạt được ông thể hiện ý tưởng kỹ thuật hạt nhân là nhằm mục đích phục vụ hòa bình. Thế nên, xung quanh lò, ông đã cho trồng 500 cây anh đào quanh năm xanh tốt và nở hoa vào mỗi độ xuân về…
KTS Ngô Viết Thụ rời cõi tạm từ hơn hai thập niên trước, nhưng tôi luôn nhớ về ông, một con người với tài năng và nhân cách mà tôi hằng kính phục. Tôi không thể nào quên những lần về TP Hồ Chí Minh thăm ông, được ấm áp trong mối giao cảm cùng bậc trưởng lão có tâm hồn thanh cao và ấm áp ấy. Được tiếp xúc và được ông quý mến, với tôi là một phần thưởng vô cùng quý giá. Qua phong thái ung dung, tự tại của ông, được tiếp nhận năng lượng từ ánh mắt lấp lánh trí tuệ và lòng nhân hậu của ông, tôi như thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản 
và an nhiên hơn.