Đại đoàn kết toàn dân tộc: Ðộng lực chủ yếu của sự phát triển bền vững

08:11, 18/11/2016

Ðoàn kết là một truyền thống tốt đẹp, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước; điều này được thể hiện đậm nét trong lịch sử dân tộc ta, nhất là trong cuộc cách mạng giải phóng đất nước...

Ðoàn kết là một truyền thống tốt đẹp, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước; điều này được thể hiện đậm nét trong lịch sử dân tộc ta, nhất là trong cuộc cách mạng giải phóng đất nước. Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta tiếp tục xác định xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu, nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 
Bác Hồ với các đồng bào dân tộc. Ảnh: Tư liệu
Bác Hồ với các đồng bào dân tộc. Ảnh: Tư liệu
Nói đến động lực phát triển xã hội là nói đến khả năng, nhất là khả năng trí tuệ của con người, có thể tạo nên sức mạnh to lớn của toàn xã hội, làm chuyển động và thay đổi một cách toàn diện xã hội theo hướng phát triển, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người. Nhưng để biến những khả năng đó thành hiện thực trong cuộc sống thì phải có một lực lượng xã hội to lớn, đó là khối đại đoàn kết toàn dân. Động lực phát triển đất nước cũng có sự thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, trong đó có những yếu tố tồn tại một cách xuyên suốt, vĩnh hằng. 
 
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào muốn phát triển cũng phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của quốc gia, dân tộc đó. Đối với Việt Nam, sự hình thành khối đại đoàn kết toàn dân có tính đặc thù do phải trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách để chống lại thiên tai, dịch bệnh khắc nghiệt và các kẻ thù xâm lược hùng mạnh hơn từ bên ngoài. Do đó, đoàn kết đã được hun đúc từ đời này qua đời khác và trở thành một truyền thống quý báu lâu đời, sức mạnh vô địch của dân tộc ta. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra những kết luận có tính chân lý: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. 
 
Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đã được kế thừa và phát triển đến cao độ; được thể hiện nhất quán và xuyên suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ những động lực phát triển đất nước, bao gồm: Đại đoàn kết toàn dân tộc; Dân chủ xã hội chủ nghĩa; kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người; Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Công bằng xã hội; Đổi mới, sáng tạo… Trong đó, đại đoàn kết toàn dân tộc được xem là động lực hàng đầu.
 
Riêng nhận thức về đại đoàn kết dân tộc, động lực chủ yếu của sự phát triển trong 30 năm đổi mới, cũng có những thay đổi, phát triển phù hợp với điều kiện thực tế. Đó là xây dựng đại đoàn kết gắn với đồng thuận xã hội, trong đó đồng thuận vừa là phương thức vừa là mục tiêu của đại đoàn kết; đã hình thành những bộ phận mới trong khối đại đoàn kết và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước như doanh nhân chẳng hạn; hình thành phương châm mới xây dựng đại đoàn kết là gắn với phát huy dân chủ, xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung…
 
Sở dĩ, đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta coi là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, khi được quy tụ, tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất, thì sẽ động viên đến mức cao nhất sức mạnh của tất cả các giai tầng trong xã hội, đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước để hướng đến mục tiêu chung là xây dựng và phát triển “Một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới, khác với quan điểm tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp trước đây.
 
Trong tình hình hiện nay, đại đoàn kết dân tộc chỉ trở thành động lực khi: (1) Độc lập, tự do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội - lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc - được thể hiện cụ thể, sinh động hàng ngày trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. (2) Quyền làm chủ đất nước của nhân dân được tôn trọng, nhân dân thực sự là người chủ và thực sự làm chủ đất nước, như Hiến pháp đã quy định. (3) Các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải có tác dụng trực tiếp và quyết định đến đời sống nhân dân và kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. (4) Mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân được thắt chặt một cách bền vững, thực chất… 
 
Tuy nhiên, để hiện thực hóa quan điểm, tư tưởng đúng đắn đó, Nhà nước cần thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; đồng thời tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật một cách nghiêm minh, có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, công tâm, hết lòng phục vụ nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cần làm tốt vai trò đại diện cho lợi ích chung và lợi ích của các giai tầng trong xã hội, là cầu nối quan trọng giữa Đảng, chính quyền và nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải thông qua Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và bằng các hình thức đa dạng nhằm thực hiện tốt các phong trào, các cuộc vận động chung, cũng như trong từng lĩnh vực. Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư, thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị… 
 
Trước mắt, cần tập trung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội; tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, ai ai cũng đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước; chăm lo và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội; tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo…
 
Nhờ có truyền thống lâu đời và biết giữ gìn và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nên dù phải trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách nhưng dân tộc Việt Nam vẫn không bị suy yếu, không bị đồng hóa và ngày nay đang vững bước đi lên CNXH vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, từng bước hội nhập quốc tế. Để truyền thống tốt đẹp đó biến thành sức mạnh, là động lực chủ yếu và nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm sự thắng lợi bền vững của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, cũng như mọi người dân, trước hết là các cấp ủy đảng và người đứng đầu cấp ủy cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những định hướng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã được Nghị quyết Đại hội XII của Đảng thông qua. Từ đó, hết sức trân trọng, giữ gìn và không ngừng kế thừa, phát huy, phát triển trong thời kỳ mới.
 
KHÁNH LINH