Nhận thức và thấm nhuần sâu sắc về tư tưởng Hồ Chí Minh

09:12, 14/12/2016

(LĐ online) - Để góp phần nâng cao hiệu quả việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng

(LĐ online) - Để góp phần nâng cao hiệu quả việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; Báo Lâm Đồng Điện tử xin giới thiệu những nội dung cốt lõi về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
Từ Đại hội II của Đảng (1951), Đảng ta nhận thức: Tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối chính trị của Đảng; với vấn đề về Đảng và với vấn đề về phương pháp, phong trào cách mạng. Đến Cương lĩnh chính trị thông qua tại Đại hội VII (2001), Đảng ta khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đây là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta, nó được thực tiễn chứng minh sự khẳng định đó là hoàn toàn chính xác và đúng đắn.       
 
Với kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đến Đại hội IX, Đảng ta đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại”. Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện tập trung, cô đọng trong 9 chuyên đề về các lĩnh vực của cách mạng Việt Nam.
 
Để Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, từ nhiệm kỳ Đại hội IX, Đảng ta đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Bác. Việc học tập và làm theo Bác đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng mong muốn yêu cầu đặt ra. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Từ đó, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. 
 
Điều quan trọng đặt ra hiện nay là mỗi cán bộ, đảng viên, cũng như mọi người dân cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn và thấm nhuần sâu sắc về hệ thống quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cơ sở vũng chắc cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII đạt hiệu quả cao. 
 
Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Các phong trào kháng chiến chống Pháp dựa trên ý thức hệ phong kiến liên tục nổi lên nhưng đều thất bại, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối chính trị cứu nước. Tình hình đó cho thấy, muốn thắng lợi phong trào cứu nước của nhân dân ta phải đi theo một con đường cách mạng mới.
 
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, sống gần gũi với nhân dân; trên quê hương Nghệ Tĩnh giàu truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm; được chứng kiến cuộc sống bị áp bức, bóc lột cùng cực của đồng bào ta và những tội ác của bọn thực dân Pháp, cũng như thái độ ươn hèn, bạc nhược của triều nhà Nguyễn, đã thôi thúc người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cách mạng mới cứu nước, cứu dân. 
 
Bôn ba khắp thế giới, Người đã tiếp thu được tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với vốn văn hóa truyền thống của dân tộc để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, đặc biệt Hồ Chí Minh đã lựa chọn, tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình - nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận Mác - Lênin. 
 
Tuy nhiên, ngoài nhân tố khách quan, những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành tư tưởng đặc sắc Hồ Chí Minh. Đó là sự thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu; là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế; là ý chí của một nhà yêu nước, thương dân, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào… 
 
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại Di chúc thiêng liêng gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân hiếm có, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Di chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
 
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành thông qua một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của người, với các giai đoạn: từ 1890 -1911, hình thành tư tưởng yêu nước, hoài bão cứu dân, cứu nước; từ 1911-1920, tìm tòi, khảo nghiệm; từ 1921 - 1930, hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam; từ 1930 - 1941, vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định; từ 1941 - 1969, phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay. Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong thời gian qua vừa kiểm chứng, vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính cách mạng, sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh.
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
 
1. Mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Trước hết, sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người mà nội dung cốt lõi là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập...”. Đó là quyền quyền cơ bản, thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc trên thế giới và nó trở nên gay gắt khi đế quốc chủ nghĩa thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu. Tư tưởng đó được Hồ Chí Minh nung nấu, đeo đuổi trong suốt cuộc đời cách mạng của mình: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!”; “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”;  “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
 
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH.  
 
Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở những luận điểm cơ bản, đó là: 
 
(1) Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước; đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc.
 
(2) Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; bởi theo Hồ Chí Minh: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”. 
 
(3) Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. 
 
Thứ ba, luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân; giành độc lập dân tộc, xây dựng CNXH vì hạnh phúc của con người. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
 
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:
 
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản”. 
 
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo và theo Hồ Chí Minh, Đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.
 
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Người viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”; vì vậy phải đoàn kết toàn dân, mà cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”.
 
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Người khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa: “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”. 
 
Thứ năm, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân. Ngay từ đầu năm 1924, Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương, đó là cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn...Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã triệt để thực hiện tư tưởng đúng đắn đó để giành thắng lợi vẻ vang.
 
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH, KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
 
 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập độc lập dân tộc gắn với CNXH 
 
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã vượt qua tư tưởng yêu nước, độc lập dân tộc theo lập trường phong kiến (trung quân, ái quốc); tư sản dân chủ tư sản của Trung Quốc (chủ nghĩa Tam dân), chủ nghĩa tư bản phương Tây (Anh, Pháp, Mỹ…), để đến với chủ nghĩa Mác – Lênin khi bắt gặp Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga; từ đó tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân là con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường duy nhất đúng đắn: con đường giải phóng  dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với CNXH. Đó là quy luật của thời đại, đáp ứng khát vọng ngàn đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
 
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng làng xã Việt Nam; tư tưởng XHCN sơ khai ở phương Đông qua “thuyết đại đồng” của Nho giáo, tư tưởng CNXH không tưởng châu Âu thế kỷ XVIII - XIX... để đến với CNXH khoa học của Mác – Lênin. Đó là lý tưởng về một xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”. 
 
Thứ ba, Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH có những đặc trưng bản chất là: Một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú; một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng, các dân tộc đều bình đẳng; là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
 
Thứ tư, CNXH muốn phát triển phải đấu tranh, khắc phục các trở lực kìm hãm như: Chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm (tham ô, lãng phí, quan liêu…). Theo Bác, “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch hung ác của CNXH; vì “Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính”; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng không chịu học tập cái mới,...
 
Thứ năm, con đường quá độ lên CNXH cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước: “Tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau... Có nước thì đi thẳng lên con đường CNXH,... có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CNXH”. Đối với Việt Nam, Người đã chỉ ra: “Xây dựng CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”. Vì vậy, phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng “chớ ham làm mau, ham rầm rộ... đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”.
 
Thứ sáu, những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam là phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN... Phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành là nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo; chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài; phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
 
2. tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 
 
 Thứ nhất, sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được hình thành từ bối cảnh chủ nghĩa đế quốc làm nảy sinh mâu thuẫn cơ bản của thời đại, đó là: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa; giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; giữa các nước đế quốc với các nước đế quốc; giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản; sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã đặt ra nhiều vấn đề mới trong quan hệ quốc tế. 
 
Thứ hai, mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được hình thành bắt đầu từ nhận thức rõ và có niềm tin mạnh liệt vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước; tinh thần đoàn kết; ý chí độc lập, tự lực, tư cường, truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do của dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã nói công khai “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Sau khi tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng cao nhận thức của mình về sức mạnh của thời đại: đó là sức mạnh kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, sức mạnh đoàn kết quốc tế, coi “giúp bạn là tự giúp mình”; hình thành và phát triển sức mạnh đoàn kết trong hệ thống XHCN thế giới…
 
Thứ ba, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản; giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Hồ Chí Minh đã đặt cách mạng Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản trên thế giới: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”(13 Sđd, t.2, tr.301, 124)…
 
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, Hồ Chí Minh đã chủ trương mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ đã được đặt nền móng ngay từ khi còn đi tìm đường cứu nước. Người đã nhiều lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”; hoan nghênh các nhà tư bản đến kinh doanh ở Việt Nam, với mục đích làm lợi cho cả hai bên, còn nếu mong đưa tư bản đến để ràng buộc, áp chế Việt Nam thì Việt Nam cương quyết cự tuyệt.
 
Với tư tưởng về sức mạnh của thời đại, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh không chỉ là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam mà còn là chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản quốc tế, lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới.
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỨC MẠNH CỦA NHÂN DÂN, CỦA KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 
 
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở:
 
(1) Truyền thống yêu nước gắn liền với ý thức cộng đồng, cố kết cộng đồng, đoàn kết dân tộc của nhân dân Việt Nam “Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
 
(2) Tổng kết những kinh nghiệm của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều thất bại do chưa có đường lối chính trị đúng đắn, chưa tập hợp được quần chúng. 
 
(3) Nghiên cứu thực tiễn và kinh nghiệm của cách mạng thế giới từ cách mạng tư sản, đặc biệt cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp, đó là các cuộc cách mạng “không đến nơi”.
 
(4) Tiếp thu những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về: Vai trò của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng thắng lợi trước hết phải trở thành dân tộc; liên minh công nông là cơ sở to lớn để xây dựng lực lượng cách mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế...
 
Hồ Chí minh đưa ra quan niệm Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh, của khối đại đoàn kết dân tộc: “...Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó”… 
 
 Trong thời đại mới, Hồ Chí Minh đặt sự đoàn kết toàn dân tộc trong mối quan hệ với đoàn kết quốc tế: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”, đó là sự thể hiện đoàn kết trong Đảng, đoàn kết nhân dân và đoàn kết quốc tế.
 
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc
 
Thứ nhất, đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công”… Đây là tư tưởng có ý nghĩa chiến lược, không chỉ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà cả trong xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
 
Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, của cả dân tộc; phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam (1951), Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. 
 
Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân: “Mọi con dân nước Việt”, “Mỗi một con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, “già, trẻ gái trai, giàu nghèo, quý tiện”... “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. 
 
Thứ tư, đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nơi quy tụ người Việt Nam yêu nước cả trong và ngoài nước, dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông (sau thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng; hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết... Phương châm đoàn kết là “cầu đồng tồn dị”. Tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh là đoàn kết phải bao gồm đấu tranh, đấu tranh để đoàn kết tốt hơn; phải chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, khuynh hướng đoàn kết một chiều trong nội bộ Mặt trận. Muốn vậy, phải có tấm lòng khoan dung, đại độ với con người. 
 
Thứ năm, Đảng cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc, “đại đoàn kết dân tộc... thành vấn đề máu thịt của Đảng”. Người viết: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận tập trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
 
Thứ sáu, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định “Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới”. 
 
Nêu cao tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, Hồ Chí Minh không những được cả nước tôn vinh là lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam mà còn được thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cách mạng thế giới, danh nhân văn hóa nhân loại.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN, XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC THẬT SỰ CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân có liên quan đến phạm trù dân chủ, có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số phản động, chống lại nhân dân. 
 
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước được hình thành trên cơ sở nghiên cứu lịch sử dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Nhà nước trong lịch sử Việt Nam (các triều đại Việt Nam). Đồng thời nghiên cứu các kiểu Nhà nước trong lịch sử, đó là nhà nước thực dân phong kiến với bản chất vô nhân đạo mà thực dân, đế quốc thi hành ở các xứ “bảo hộ”; nhà nước dân chủ tư sản là sản phẩm của “những cuộc cách mạng không đến nơi” (Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp); Nhà nước Xô viết là kết quả của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 - cuộc cách mạng “đến nơi”, đã “phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền... ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng”. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nhà nước, bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản, nhà nước XHCN.
 
II. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
 
Thứ nhất, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; bởi “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Vì vậy, Nhà nước phải do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát; phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính; cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân, phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải là người “đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”... Từ đó, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh...”. 
 
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh, điểm khác nhau về bản chất giữa nhà nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột là xuất phát từ bản chất “Nhà nước của ta là Nhà nước của nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo”; từ đó định hướng đưa đất nước quá độ đi lên CNXH. Đồng thời, Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc cơ bản là tập trung dân chủ; có sự thống nhất hài hòa giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc...Sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân là kết quả đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng; do đó phải lấy bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. 
 
Thứ ba, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến thông qua cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu do nhân dân bầu ra; nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế, “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Nhà nước dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Từ đó, Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp luật được thi hành, yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”; đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”. Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền mạnh mẽ có hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư…
 
Thứ tư, về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả; tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức, trước hết phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, đặc biệt phải coi trọng vấn đề giáo dục đạo đức… Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành pháp luật nghiêm minh, nghĩa là không bao giờ được tuyệt đối hóa một yếu tố riêng lẻ nào. 
 
Thực hành tư tưởng về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả; tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng phí, quan liêu; coi chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”. Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”. Từ đó, Người đòi hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
 
Nội dung cơ bản của tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại mới.
 
Thứ nhất, tư tưởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng theo quan điểm Mác – Lênin là một nội dung cơ bản của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Đó là sự thống nhất biện chứng, mang tính nhân văn và hòa bình; hoàn toàn xa lạ, đối lập với tư tưởng hiếu chiến của những kẻ xâm lược, với các xu hướng phiêu lưu, manh động và khủng bố cá nhân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực bao giờ cũng phải dựa vào hai lực lượng: chính trị của toàn dân và vũ trang nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang. Người tìm mọi cách ngăn chặn các cuộc xung đột vũ trang, đẩy lùi chiến tranh, có khi phải chấp nhận những nhân nhượng cần thiết, có nguyên tắc, bởi vì Người yêu nước, thương dân, quý trọng sinh mệnh con người, “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình... Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách... Nhưng cuộc chiến tranh ấy, nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm”. Đó là tư tưởng có tính nguyên tắc, một đặc trưng nổi bật trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự.
 
Thứ hai, tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang toàn dân là một đóng góp to lớn và mang tính sáng tạo sâu sắc của Hồ Chí Minh, trong đó có những nội dung chủ yếu sau: Khởi nghĩa vũ trang do toàn thể dân tộc tiến hành; tạo thời cơ và nắm vững thời cơ để phát động khởi nghĩa toàn dân; khởi nghĩa vũ trang là phải dùng vũ khí, phải chiến thắng bằng lực lượng vũ trang, song đó lại là “cuộc chiến tranh to tát về chính trị và quân sự”; khởi nghĩa từng phần đi đến tổng khởi nghĩa và khi giành được chính quyền, phải khẩn trương xây dựng chính quyền cách mạng, và đó phải là chính quyền của dân, do dân, vì dân.
 
Thứ ba, tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ bản chất chính nghĩa sâu sắc và từ lý tưởng cao quý, khát vọng độc lập tự do của cuộc chiến đấu mà nhân dân ta tiến hành; kế thừa truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc ta, đồng thời vận dụng triệt để và sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nhờ đó, cuộc kháng chiến của dân tộc ta chống lại chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân và đế quốc mới giành được thắng lợi vẻ vang. Bởi theo Người, một dân tộc mà không biết tự lực cánh sinh, không biết dựa vào chính sức mình để giải phóng cho mình thì không xứng đáng được độc lập, tự do, …
 
Thứ tư, nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh là học tập, vận dụng và phát triển truyền thống nghệ thuật quân sự của cha ông ta “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy ít đánh nhiều”, “lấy nhỏ đánh lớn”... nâng lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu và thách thức trong một cuộc chiến tranh thời kỳ hiện đại. Đồng thời phải luôn chủ động giành thế tiến công, phải chắc thắng, không phiêu lưu, mạo hiểm; biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế; biết nắm thời cơ quyết định để luôn đánh địch trên thế mạnh; biết đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi quy mô, mọi thứ vũ khí, trang bị, không chỉ đánh vào quân đội có vũ khí, mà đánh thẳng vào lòng người; kết hợp tác chiến với binh vận, địch vận…Và đó còn là nghệ thuật biết khởi đầu chiến tranh và biết biết kết thúc chiến tranh vào thời điểm có lợi nhất và thích hợp nhất. Bởi chiến tranh giải phóng của dân tộc thuộc địa chống thực dân, đế quốc lúc đầu bao giờ cũng là cuộc chiến đấu của người yếu chống kẻ mạnh. 
 
Thứ năm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân là hai lực lượng chủ yếu tạo nên sức mạnh tổng hợp tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, bởi “Sự đồng tâm của đồng bào đúc nên bức tường đồng xung quanh Tổ quốc”. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích là một nội dung lớn và sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh đã nêu lên một lụân điểm hết sức quan trọng và được diễn đạt vô cùng giản dị, cô đúc, đó là “người trước, súng sau”; từ đó, Người đặc biệt chăm lo bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh, trình độ chính trị, có phẩm chất, đạo đức, có trình độ văn hóa, có tri thức và kỹ năng quân sự, có sức khỏe để đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ của một đội quân chiến đấu, sản xuất và công tác. Người nêu ra sáu yêu cầu cơ bản đối với người chỉ huy quân sự là “Trí - Dũng - Nhân - Tín – Liêm – Trung”.
 
Thứ sáu, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Hậu phương vững chắc là một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Đối với Hồ Chí Minh, hậu phương không chỉ là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực mà còn là sức mạnh tinh thần, trong đó lòng dân lại là sức mạnh đặc biệt to lớn. Nghệ thuật phát huy cao độ sức mạnh toàn dân đánh giặc với lòng dũng cảm phi thường và trí thông minh, sáng tạo tuyệt vời là một thành tựu to lớn của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. 
 
Đất nước chúng ta, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới với những cơ hội lớn và những thách thức gay gắt. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, trực tiếp tạo nên sức mạnh vô địch vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ VĂN HÓA, KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT, TINH THẦN CỦA NHÂN DÂN
 
 Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước để giải phóng đồng bào, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một xã hội mới, một cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn vậy, trước tiên phải giành lại độc lập cho dân tộc, kế đó phải xây dựng đất nước vững mạnh cả về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong Di chúc, Bác đã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
 
I. Phát triển kinh tế và văn hóa
 
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc về phát triển kinh tế không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Đó là:
 
Thứ nhất, là một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế rất lạc hậu, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân thấp kém, do đó Hồ Chí Minh coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Người đã chỉ rõ: “... nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... có công nghiệp và nông nghệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”.
 
Thứ hai, về cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh chủ trương phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp; công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển. Người chỉ rõ: Nền kinh tế XHCN có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp, hai chân không đều nhau, không thể lớn mạnh được. Phát triển mạnh cả công công nghiệp và nông nghiệp cũng góp phần thực hiện liên minh công nông để xây dựng CNXH, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân; trong đó, “công nghiệp hóa XHCN vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”. 
 
Thứ ba, về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế: Nền kinh tế XHCN phải tạo lập trên cơ sở chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, ở thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: “Sở hữu nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu hợp tác xã tức là sở hữ tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẽ. Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. Về thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh xác định trong thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản của tư nhân; tư bản của Nhà nước. 
 
Thứ tư, tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng, thời gian, sức lao động. Đồng thời, phải chống tham ô, lãng phí, quan liêu là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm. Người chỉ rõ: “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi CNXH, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”.
 
 II. Không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân
 
Thứ nhất, thấu hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác – Lênin, tinh hoa văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa. Người phân tích và luôn nhấn mạnh văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, biện chứng với cơ sở hạ tầng; khẳng định nhiều lần ý nghĩa, vai trò của văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Người cũng chỉ ra rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. 
 
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ xây dựng “một nền văn hóa mới” và chỉ rõ tính chất, đặc trưng và chức năng chủ yếu của nền văn hóa đó là:
 
a. Nền văn hóa Việt Nam bao hàm các tính chất dân tộc, hiện đại và nhân văn; đa dạng và thống nhất – là  nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 
 
b. Nền văn hóa mới, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, phải là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ; thấm sâu vào trong tâm lý của quốc dân, làm cho mỗi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình đáng được hưởng. Từ đó, Người luôn đòi hỏi rất cao đối với chất lượng của hoạt động văn hóa; văn hóa phải trở thành một nguồn lực nội sinh quan trọng của phát triển.
 
Thứ ba, văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú, bao gồm văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, đời sống văn hóa cụ thể, văn hóa lối sống... Từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hóa, Hồ Chí Minh đã có nhiều ý kiến sâu sắc về văn hóa; đó là: (1) Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. (2) Văn nghệ “cần hiểu thấu và đi  sâu vào đời sống của nhân dân”, gắn bó và am hiểu sâu thực tiễn đời sống nhân dân để có thể phản ánh chân thật, sinh động, hùng hồn thực tiễn ấy. (3) Phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; với thời đại mới của dân tộc, của đất nước... (4) Đồng thời, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói đến tính đa dạng, phong phú của văn nghệ, coi đó là đặc trưng, là một đòi hỏi nội tại của bản thân văn nghệ : “... cần làm cho món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp”.
 
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Toàn dân tham gia sáng tạo văn hóa, toàn dân làm nghĩa vụ và đóng góp cho sự phát triển văn hóa, toàn dân tham gia xây dựng và tự quản đời sống văn hóa của mình và toàn dân được quyền hưởng thụ, tiếp nhận, lưu giữ và truyền bá văn hóa tốt đẹp, lành mạnh. 
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là những định hướng lớn cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của chúng ta hiện nay. 
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ
 
Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhà lý luận về đạo đức, một lãnh tụ cách mạng đã bàn nhiều nhất, bàn một cách sâu sắc, cô đọng, thấm thía và quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Và chính Người, cả cuộc đời đã tự mình thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn vẹn nhất những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra; trở thành một tấm gương đạo đức trong sáng, gần gũi và độc đáo nhất.
 
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền đạo đức Việt Nam là đạo đức mới, đạo đức cách mạng, “…đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Đạo đức cách mạng do Người đề xướng mang bản chất và phẩm chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kết hợp nhuần nhuyễn và sinh động với những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và những tinh hoa đạo đức của loài người. Nó phải được thấm sâu vào đời sống, trở thành một bộ phận đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam, của Văn hiến Việt Nam hiện đại.
 
Thứ hai, Hồ Chí Minh bàn về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam thời đại mới thuộc mọi đối tượng, mọi lĩnh vực, phạm vi hoạt động và sinh sống, cũng như trong các quan hệ phong phú, phức tạp, tinh tế của con người... Người khái quát thành những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam, những chuẩn mực chung của nền đạo đức cách mạng Việt Nam, đó là: (1) Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất; là định hướng chính trị - đạo đức lớn nhất cho mỗi người. (2) Yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức đẹp đẽ và cao cả nhất mà Hồ Chí Minh yêu cầu và khẳng định đối với con người Việt Nam và chính Người đã chứng minh tuyệt vời phẩm chất đó bằng toàn bộ cuộc đời mình. (3) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất được Hồ Chí Minh đề cập nhiều nhất, thường xuyên nhất khi nói về đạo đức cách mạng. (4) Tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất đạo đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm vào xây dựng tình đoàn kết “bốn hương vô sản đều là anh em”.
 
Thứ ba, cùng với việc đúc kết thành lý luận về nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đồng thời xác định những nguyên tắc và phương châm xây dựng đạo đức mới để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng và cho việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của mỗi con người. Theo Hồ Chí Minh, để xây dựng nền đạo đức mới, chúng ta cần:
 
(1) Nói đi đôi với làm và cao hơn là làm rồi mới nói, làm nhiều, nói ít và thậm chí làm hết lòng, làm tận tụy mà không nói, không tự phô trương mình; phải nêu gương về đạo đức là một yêu cầu, một phương châm lớn và sâu sắc để xây dựng đạo đức mà bằng cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc và trọn vẹn. 
 
 (2) Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây là con đường để xây dựng đạo đức mới, là nguyên tắc được Hồ Chí Minh khẳng định và vận dụng thường xuyên, linh hoạt, đầy sáng tạo trong chỉ đạo thực hiện. Hồ chí Minh đã nhiều lần vạch ra rất cụ thể những khuyết điểm, những căn bệnh đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhân dân và coi đó là tội ác, là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân. Từ đó, Người yêu cầu: “Cần phải nêu những đồng chí đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi Đảng.... Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối lộ”.
 
(3) Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì “Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện, bề bỉ, hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện, càng trong”. 
 
(4) Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, đất nước ta bước vào xây dựng và đổi mới sau khi giành được độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Đặc biệt, trong những điều kiện mới, vấn đề đạo đức đang trở thành một trong những vấn đề bức xúc nhất, có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, quyền lãnh đạo và niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tác động tiêu cực đến toàn bộ nền đạo đức xã hội mà chúng ta đã dày công xây dựng nhiều thập kỷ qua.
 
Trở về và thấu hiểu sâu hơn nữa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta vững tâm, kiên định đi tới trong cuộc đấu tranh vì một nền đạo đức Việt Nam mới, đạo đức cách mạng, ngang với tầm vóc của dân tộc và thời đại.
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VỪA LÀ NGƯỜI LÃNH  ĐẠO, VỪA LÀ NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN
 
Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, Người đã để lại những luận điểm rất quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc; những chỉ đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới.
 
Thứ nhất, Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh và “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Từ đó, Người đã sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, có khả năng đoàn kết “tập hợp”, “lôi kéo” các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng. 
 
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã viết  “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.  Nhờ đó, Đảng ta đã lãnh đạo công nhân và quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam cũng như phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh luận điểm của Người là hoàn toàn đúng đắn.
 
Thứ ba, từ luận điểm phải kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, cho thấy Hồ Chí Minh đã hiểu rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái không thấy rõ vai trò và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, hoặc chỉ thiên về công nông mà không thấy rõ vai trò của các tầng lớp, giai cấp khác tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh đã kết luận: “Đảng ta là đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. 
 
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”. Bởi  vì “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Nhưng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin “làm nòng cốt” theo Bác là phải nắm vững tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp, tuyệt không giáo điều, rập khuôn, máy móc…; đồng thời thâu thái những tinh hoa của văn hóa dân tộc và nhân loại.
 
Thứ năm, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những nguyên lý xây dựng Đảng của V.I.Lênin để  xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; đó là:
 
(1) Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng Đảng cộng sản, không biến Đảng thành một câu lạc bộ. Dân chủ và tập trung là hai mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau; tập trung trên cơ sở dân chủ, theo nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người đặc biệt nhấn mạnh đến dân chủ nội bộ, vì có dân chủ trong Đảng mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ triệu lần dân chủ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa.
 
(2) Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Bởi theo Bác “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Còn không cá nhân phụ trách thì dẫn đến không ai chịu trách nhiệm.
 
(3). Nguyên tắc tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh coi là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng; là quy luật phát triển của Đảng; là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Người nói: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó… là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
 
(4) Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác trong Đảng để nâng cao sức mạnh to lớn của Đảng: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức để tạo nên sức nghiêm minh của cán bộ, đảng viên”. Theo Người, nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, còn tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên đối với Đảng. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng, mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”.
 
(5) Đoàn kết, thống nhất trong Đảng là một nguyên tắc quan trọng của Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng. Trong di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
 
Thứ sáu, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân; phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và dân. Người nhấn mạnh: Lãnh đạo có nghĩa là làm đầy tớ. Đảng cầm quyền lại càng phải ý thức thật sâu sắc mình là đầy tớ nhân dân, chứ không phải người chủ của nhân dân, tự cho phép mình đứng trên dân, trên Nhà nước, trên pháp luật. 
 
Thứ bảy, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Vì vậy, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới Đảng để hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hoá biến chất gây ra.
 
Trước lúc đi xa, Người còn căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”.
 
Những luận điểm trên đây về công tác xây dựng Đảng của Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất sâu xa đối với Đảng ta và mỗi đảng viên cộng sản; nhất là trong thời điểm Đảng ta đang triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.  
 
BAN BIÊN TẬP