Hồ Chí Minh, một con người giàu lòng nhân ái

08:05, 18/05/2017

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Trước lúc đi xa, Người đã "để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng"; đồng thời cũng "gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế"...

Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Trước lúc đi xa, Người đã “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”; đồng thời cũng “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”. Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời về lòng nhân ái, vị tha mà mỗi chúng ta tự hào suốt đời học tập và noi theo.
 
Bác Hồ bắt tay thăm hỏi các cụ già khi về thăm Pác Bó, (Xuân Tân Sửu 1961). Ảnh: Tư liệu
Bác Hồ bắt tay thăm hỏi các cụ già khi về thăm Pác Bó, (Xuân Tân Sửu 1961). Ảnh: Tư liệu
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng bác ái” và chính Người là biểu tượng, là kết tinh của lòng nhân ái Việt Nam. Lòng nhân ái, vị tha của Hồ Chí Minh xuất phát từ lẽ sống “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” và dành tất cả cho mọi kiếp người, không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, già trẻ, gái trai, hễ là người Việt Nam yêu nước đều có chỗ trong trái tim và tấm lòng nhân ái của Người. 
 
Năm 1911, Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước mang theo hành trang duy nhất, đó là lòng yêu nước và khát vọng giành lại nền độc lập cho đất nước. Trên con đường cứu nước đầy sóng gió, chông gai, lòng yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước luôn canh cánh, nhất quán trong suy nghĩ và hành động của Người. Từ đó thôi thúc Người đấu tranh không ngừng nghỉ, thậm chí chấp nhận hy sinh để giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Với Hồ Chí Minh, lòng nhân ái là sự gắn chặt giữa lòng yêu nước với thương dân như hình với bóng, thông cảm sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh; không thể có yêu nước mà lại không thương dân, không lấy nguyện vọng, ham muốn của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình. Vì lẽ đó mà khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nêu rõ mục tiêu của Nhà nước: “Một là, làm cho dân có ăn. Hai là, làm cho dân có mặc. Ba là, làm cho dân có chỗ ở. Bốn là, làm cho dân được học hành”. 
 
Với lòng nhân ái bao la, Người đã dành tình yêu thương, sự chia sẻ nỗi đau với mỗi người. Người đau nỗi đau của một người từng trải và chứng kiến nhiều cảnh đau thương mất mát, bao cảnh bất công, ngang trái mà đồng bào mình, đất nước mình và các dân tộc đồng cảnh ngộ phải gánh chịu…Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”; hay “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Tình yêu thương con người của Bác không phải là sự thương hại, mà chính là sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ, những người bị áp bức, bóc lột, nô lệ lầm than…
 
Người vạch đường, chỉ lối, khuyến khích, động viên, nhắc nhở mọi người; chăm lo từng miếng ăn, giấc ngủ cho đồng bào, chiến sĩ… bằng cả tấm lòng của người mẹ, người cha. Những năm kháng chiến, sống cùng nhân dân, khi các cháu nhỏ lở chốc, Bác đã đem nước nóng rửa thật sạch chỗ bị thương, rồi lấy tro bếp nóng, gói lại ấp lên đầu các cháu một cách cẩn thận, nên chỉ trong một thời gian ngắn, lở chốc trên đầu cháu bé bay đi hết. Năm 1946, khi tham dự cuộc vận động “Mùa Đông binh sĩ”, Bác đã cởi ngay chiếc áo len đang mặc để gửi cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Bác còn dành cả tiền lương, nhuận bút, quần áo, khăn mặt để tặng các chiến sĩ, gia đình chính sách, các cụ già, em thơ và những người nghèo khổ. Tháng 1/1947, khi biết con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng hi sinh, Bác đã gửi cho ông bức thư, trong đó có viết: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi mất một đoạn ruột”. Khi đi công tác nước ngoài được biết có loại cây xanh quanh năm không rụng lá, Bác nghĩ ngay tới chị lao công đêm đêm vất vả quét lá nên khuyên tìm cách đưa loại cây ấy về nước. Đặc biệt, Bác rất quan tâm giải phóng phụ nữ, Bác nói: “Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa”...
 
Tấm lòng nhân ái, hết lòng vì con người của Bác không chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà còn cho cả nhân loại cần lao. Chuyện kể rằng: Khi làm phụ bếp ở bên Anh, Bác để riêng thức ăn còn thừa gói lại mang về cho những người nghèo khổ ăn xin ngoài đường. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển tìm đường cứu nước, Bác đã không cầm nổi nước mắt khi chứng kiến cảnh thực dân Pháp tại cảng Đaca bắt người lao động da đen nhảy xuống biển bị sóng nhấn chìm. Người cũng khóc khi đọc báo biết một nhà yêu nước Ailen tuyệt thực đến chết… Năm 1946, Bác sang nước Pháp với tư cách là thượng khách, khi dự tiệc Bác lấy một quả táo bỏ vào túi, làm cho mọi người có mặt ở đó đều ngạc nhiên, ra ngoài thấy có bà mẹ bế đứa bé trên tay, Bác liền cho em bé quả táo…   
 
Tấm lòng nhân ái hết mực vì con người ở Bác còn gắn với tấm lòng vị tha, khoan dung và nhân hậu đối với những người mắc phải khuyết điểm. Người nâng niu khuyến khích mặt tốt, mặt thiện trong con người, lấy đó là biện pháp giúp đỡ những người có thói hư tật xấu vươn lên. Bởi theo Bác “Người đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu, ta phải khéo nâng chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”, “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Đối với cán bộ, đảng viên mắc phải khuyết điểm, bao giờ Bác cũng mong muốn và tạo điều kiện để họ sửa chữa khuyết điểm, sai lầm. Đối với những người lầm đường, lạc lối, Bác vẫn đặt niềm tin vào phần tốt đẹp, phần thiện trong mỗi con người đó. Người nói: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này thế khác đều là dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Đối với những đồng bào lầm đường lạc lối, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ” để họ hối cải trở về với Tổ quốc và nhân dân. Đối với kẻ thù, trong một bức thư gửi người Pháp, Người nói: “Trước lòng bác ái thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay là người Việt đều là người”. Đối với những tù binh và thường dân Pháp bị ta bắt trong chiến tranh, Người kêu gọi đồng bào và chiến sĩ ta phải nêu cao lòng chính nghĩa, nhân đạo; phải đối xử khoan hồng đối với họ, giúp họ nhận ra chân lý… Chính từ tấm lòng khoan dung, độ lượng của Bác đã làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù; cảm hóa được nhiều nhân sĩ, trí thức, kể cả các quan lại cao cấp của chế độ cũ, không quản ngại gian khổ, hy sinh để đi theo cách mạng và kháng chiến. 
 
Là một người giàu lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, nên suốt cả cuộc đời, Bác luôn day dứt với một suy nghĩ là chưa làm tròn trách nhiệm, nghĩa vụ với dân, với nước. Vì thế, Người đã từ chối mọi danh hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, nhân dân, bạn bè quốc tế dành riêng cho mình. Nói về lòng nhân ái bao la của Bác, nhà thơ Tố Hữu đã viết: 
 
“Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi 
Năm canh bớt nặng nỗi thương đời 
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế 
Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.
 
NGUYỄN VĂN HƯƠNG