Bí ẩn ở Cù Lao Chàm

09:06, 29/06/2017

Trong "Phủ biên tạp lục", nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết: "Phủ Thăng Hoa ở ngoài biển Cửa Đại Chiêm có núi to gọi là Cù Lao Chàm, ba ngọn nối nhau, hai ngọn lớn và xanh tốt, có dân cư ruộng nương… chạy từ bờ ra đó cách chừng hai canh thì đến". Sách "Đại Nam nhất thống chí" ghi cụ thể hơn: "Cách huyện Duyên Phước 68 dặm về phía đông ngất ngưởng giữa biển có đảo Ngọa Long...

Trong “Phủ biên tạp lục”, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết: “Phủ Thăng Hoa ở ngoài biển Cửa Đại Chiêm có núi to gọi là Cù Lao Chàm, ba ngọn nối nhau, hai ngọn lớn và xanh tốt, có dân cư ruộng nương… chạy từ bờ ra đó cách chừng hai canh thì đến”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi cụ thể hơn: “Cách huyện Duyên Phước 68 dặm về phía đông ngất ngưởng giữa biển có đảo Ngọa Long. Cũng gọi là hòn Cù Lao, có tên nữa là Tiềm Bút, tên cũ là Chiêm Bất Lao. Dân phường Tân Hợp ở phía nam núi, riêng đất trên núi có thể cấy cày, thuyền bè nước ta thì trông núi này làm chứng đi về đều đậu ở đây để lấy củi nước”. Như vậy Cù Lao Chàm xuất hiện ở đây mấy trăm năm và tên Cù Lao Chàm nay là xã Tân Hiệp thuộc thành phố Hội An có nguồn gốc từ chữ Tân Hợp dưới triều Nguyễn. Cù Lao Chàm gắn với hình thành phát triển đô thị Hội An, ở đây còn lưu giữ dấu vết văn hóa Chăm và Sa Huỳnh, Đại Việt.
 
Môn thể thao lướt sóng ở Cù Lao Chàm. Ảnh: N.N.Phú
Môn thể thao lướt sóng ở Cù Lao Chàm. Ảnh: N.N.Phú
Chúng tôi đến bến tàu Cửa Đại lúc 8 giờ sáng và xuống ca nô cao tốc có áo phao cứu sinh. Đặc biệt, hướng dẫn viên người nào da cũng đen cháy rất niềm nở và không  quên dặn câu cửa miệng: “Xin mời quý khách bỏ các thứ cần dùng vào túi vải chứ không được mang theo túi ni lon”. Thì ra ở Cù Lao Chàm có một quy định rất nghiêm ngặt là khách du lịch và người dân trên đảo không được dùng túi ni lon. Sau khoảng 20 phút, ca nô cao tốc đến cầu cảng Cù Lao Chàm cách  khoảng 15 hải lý. Do vị trí cách Hội An không xa và thẳng góc một đường chiếu nên Cù Lao Chàm còn được gọi là “bình phong” che trước thương cảng Hội An.
 
Lại nhớ lần nói chuyện với nhà văn Thái Bá Lợi có cuốn tiểu thuyết lịch sử “Minh Sư” khá nổi tiếng, ông cho tôi biết: Bàn về lịch sử vùng đất này, nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân cho rằng: Cù Lao  Chàm xuýt nữa trở thành một Hồng Kông. Chả là năm 1803, ba chiến hạm lớn của Đặc mệnh toàn quyền Anh Mesathay bỏ neo tại cảng Đà Nẵng trong một tháng. Phái bộ Anh đã cử đoàn đi khảo sát Cù Lao Chàm và có tường trình kỹ về quần đảo này. Năm 1804 và sau đó năm 1821, người Anh nhiều lần xin các vua nhà Nguyễn cho phép xây dựng ở đấy một căn cứ kinh tế để dễ bề tiếp xúc với thương buôn Quảng Châu và các quốc gia khác. Đến khi chiến tranh nha phiến nổ ra (1839-1942) và kết thúc là hiệp ước Nam Kinh đã giúp người Anh có được Hồng Kông, vì vậy vấn đề buôn bán tại Cù Lao Chàm không có nữa. Như thế mới biết Cù Lao Chàm có một vị trí quan trọng thu hút sự quan tâm đặc biệt không chỉ bây giờ mà còn trong quá khứ. Gần đây qua các di chỉ của khảo cổ học, các hiện vật quý như tiền cổ, gốm Slam, nền tháp Chăm… mới biết trong quá khứ Cù Lao Chàm là nơi tiếp xúc giao thương với người nước ngoài…
 
Bắt đầu là bí ẩn “giếng cổ” trên Cù Lao Chàm. Đó là giếng Xóm Cấm. Giếng cổ Chăm ở Cù Lao Chàm là giếng nước ngọt duy nhất ở vùng đất này. Người dân đã thử đào giếng ở nơi khác, tuy nhiên đều không tìm được mạch nước ngọt. Cấu trúc giếng mang đặc trưng giống với nhiều kiểu giếng Chăm ở Hội An. Giếng có kiểu hình ống tròn, thành giếng hình vuông, nền giếng hình vuông, ở mỗi góc có một trụ  vuông. Diện tích khuôn giếng khoảng 15 m2, đường kính miệng giếng khoảng 1,2 m, lòng giếng xây gạch tô vữa vôi, xây theo kiểu vành khăn, độ sâu từ miệng giếng đến đáy giếng khoảng 5 m. Tôi bất ngờ gặp nhiều cặp trai gái chia cho nhau từng ngụm nước ngọt múc từ cái giếng độc đáo này. Thì ra ở đây còn lưu truyền câu chuyện uống nước giếng cổ Cù Lao Chàm để cầu tình duyên. Trường hợp những người chưa có người yêu thì con trai uống 7 ngụm nước, con gái uống 9 ngụm nước thì tình yêu sẽ đến. Uống nước giếng còn có thể sinh con theo ý muốn. Theo kinh nghiệm của người dân nơi này thì khi người ra Cù Lao Chàm bị say sóng lấy nước  giếng nấu với lá rừng chỉ người địa phương biết uống vào hết say…
 
Điều bí ẩn thứ hai ở Cù Lao Chàm mà trước khi ra đây tôi được nghe nói nhiều về chùa Hải Tạng. Ở chợ Tân Hiệp trên cù lao có một đội xe ôm nghiệp dư. Họ trước đây là dân đánh cá biển chuyên đi bắt tôm hùm, ốc vú nàng và cua đá là những thứ đặc sản ở các rạn san hô,  nhưng nay để bảo vệ khu dự trữ sinh quyển đặc biệt được UNESCO công nhận nên cấm đánh bắt họ chuyển sang làm nghề xe ôm. Chỉ với cuốc xe 100 ngàn trong khoảng một giờ sẽ đi hết 7 điểm du lịch cần đến trên Cù Lao Chàm trong đó có chùa Hải Tạng. Chùa được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758) ở vị trí cách nơi này khoảng 200m. Nhưng sau đó do bị bão gió hư hại nặng và để tiện cho các tín đồ là ngư dân trên đảo và thương thuyền các nước ghé vào hành lễ cung kính cầu xin thuận lợi làm ăn buôn bán, nên đến năm Tự Đức nguyên niên (1848) chùa dời về đây tôn tạo lại khang trang hơn. Ở vị trí phong thủy lý tưởng này Chùa tọa lạc ở chân núi phía tây hòn Lao, nhìn thẳng vào núi Bà Mộc như thể hòn xôi án ngự. Phía trước có thung lũng nhỏ là cánh đồng lúa duy nhất ở Cù Lao Chàm. Xung quanh câu chuyện xây chùa có nhiều huyền thoại bí ẩn. Bác xe ôm cho tôi biết: Tương truyền các cây cột được vận chuyển từ ngoài Bắc đem vào làm một chùa nào đó ở trong Nam. Nhưng khi đi ngang qua Cù Lao Chàm, trời tối nên phải neo thuyền nghỉ lại. Sáng mai thuyền tiếp tục lên đường nhưng thật lạ, biển tự nhiên dậy sóng, thuyền cứ xoay tròn lòng vòng không đi được ra khỏi Cù Lao Chàm. Người trong đoàn lên cúng xin keo cho hay, số gỗ này không được đem đi mà phải để lại dựng chùa ở nơi này. Vì thế chùa được dựng lên và lấy tên là Hải Tạng. Tên chữ Hải Tạng mang một hàm ý đẹp: Kinh tạng của nhà Phật. Tên Hải Tạng còn được lý giải: Hải là biển, Tạng là Tam tạng kinh điển. Với ý nghĩa đó chùa Hải Tạng là nơi hội tụ kinh Tam tạng mênh mông cho biển cả. Phía trước chùa có tượng Phật Quan Âm đứng trên đài sen giữa lòng hồ sen nhỏ, mặt hướng về biển Đông như che chở cho cuộc sống an lành của người dân. Đây là ngôi cổ tự biểu tượng bằng kiến trúc văn hóa Phật giáo độc đáo tiêu biểu cho vùng đất linh thiêng nằm ở phía đông Tổ quốc...
 
Đến Cù Lao Chàm tôi bất ngờ được biết có một dấu ấn văn hóa của xứ đảo này đó là nghề đan võng ngô đồng truyền thống. Võng ngô đồng là thứ võng đặc biệt kể cả từ chất liệu đến công phu đan lát. Sợi đay xe lại của võng được làm từ sợi của thân cây ngô đồng chỉ mọc trên những mỏm núi cao vách đá cheo leo. Muốn đan được võng phải đốn cây ngô đồng còn non bằng nửa cổ tay người trưởng thành, không chọn cây lớn và già vì tước lấy manh đồng sẽ bị xơ, tưa và đứt từng khúc. Cây ngô đồng được đưa về đập ra dùng tay tước vỏ cứng và lấy sợi màu trắng đục gọi là manh đồng. Sau đó những sợi manh đồng sẽ được ngâm trong nước khoảng vài ngày rồi mang đi giặt cho sạch và trắng, đem ra phơi nắng thật khô. Đến khi chuyển thành màu trắng ngà tinh mới có độ óng là lúc xơ có độ bền đẹp để đan võng. Đan võng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ kiên trì và cả tình yêu bền bỉ gửi gắm vào từng đường se mũi đan, phải miệt mài ngồi nhiều giờ mỗi ngày cẩn thận xe lại từng múi rồi bện lại thành nhiều đốt. Đan xong một cái võng phải mất gần hai tháng ròng rã liên tục. Võng ngô đồng không chỉ êm bền mà nghe dân ở đây nói còn chữa được bệnh đau lưng giãn cột sống vì vỏ cây ngô đồng có chất hóa học gì đó thấm vào da người và thư giãn có hiệu quả. Giá mỗi chiếc võng ở đây từ 3 đến 4 triệu đồng chủ yếu bán cho khách du lịch. Nhưng nghề đan võng mai một, chỉ còn sót lại vài người tuổi già như bà Lê Thị Kề. Bà kể: Khoảng 20 tuổi đã được mẹ dạy cho đan võng. Bà chỉ vào mấy chiếc võng đã đan xong: Đây là loại võng 4 tính khoảng cách giữa hai múi là 4 dây còn đây là võng 6 là 6 dây. Võng 6 có chiều ngang và chiều dài lớn hơn võng 4. Tây người to thích mua võng 6, ta người nhỏ thì chọn võng 4. Không ngờ ở cái Cù Lao bãi đá này lại sinh ra cái loại cây để làm nguyên liệu cho một loại võng đặc biệt. Cái võng ngô đồng như một con thuyền mắc hai đầu từ biển vào đảo để neo bà lại đây hơn 70 năm và tuổi cái võng đầu tiên bà đan cũng đã bằng nửa từng ấy năm. Võng đã mềm bóng loáng mồ hôi mà chưa đứt xơ một múi hay mắt võng nào…
 
Cù Lao Chàm là một quần thể, trong đó đảo hòn Lao lớn nhất với khoảng gần 3.000 người sinh sống mang trong mình sự đa dạng sinh học vô cùng phong phú. Trong chương trình một ngày ở Cù Lao Chàm chúng tôi được ngắm san hô ở bãi hòn Tai. Ca nô đậu cách bờ mấy chục mét cho khách du lịch khoác tấm áo phao mang ống thở úp mặt xuống làn nước trong xanh có cảm giác như mình đang lạc vào cõi thủy cung. Ở đó có những rặng san hô rực rỡ sinh động, rập rờn như một phần cơ thể sống phập phồng dưới làn nước. Có những con cá lượn lờ bơi quanh những con sao, con ốc đủ hình thù màu sắc. Đúng là bàn tay tạo hóa thiên nhiên thật kỳ diệu. Tôi nhận thấy nước biển ở đây trong xanh có thể nhìn thấy đáy sâu hai chục mét, cát ở đảo sạch đến độ đặt lưng ướt xuống rồi nhổm dậy thì những hạt cát rơi không bám chút bụi đất nào trên da. Ở đây còn có bãi tắm thoai thoải cát mịn, trên bờ là những hàng dừa xanh tỏa bóng mắc những chiếc võng đung đưa hay những chiếc ghế bạt cho khách du lịch sau khi ăn trưa nghỉ thoải mái. Các môn thể thao như: Dù lướt sóng hay đi bộ dưới biển ngắm kỳ quan của thiên nhiên cũng có sức hút với du khách nước ngoài và người trẻ. Chúng tôi được thưởng thức bữa trưa ngay tại bãi Hương lộng gió và rợp mát bóng dừa. Thực đơn gồm 11 món, mâm nào cũng giống nhau, tây cũng như ta, bao gồm các loại hải sản tươi như cá, mực, nghêu, tôm và các loại rau củ sạch được trồng trên đảo. Một không  khí chan hòa cởi mở giữa mọi người không phân biệt màu da giọng nói rất thân thiện. Tú - Hướng dẫn viên nói với tôi đây là bữa trưa có sẵn trong vé tour, vì thế tuy phong phú nhưng khá đơn giản, anh muốn thưởng thức đặc sản Cù Lao Chàm thì lát nữa nghỉ trưa xong ra chợ Tân Hiệp em sẽ chỉ cho. Chợ Tân Hiệp ở Cù Lao Chàm bán hải sản tươi rẻ mà không nói thách. Đầu tiên là món ốc vú nàng. Đó là trên đỉnh đầu ốc có cái nhúm nhỏ trong tựa như đầu vú của các cô gái dậy thì, vỏ ngoài màu đen xạm, mặt trong lấp lánh xà cừ. Luộc ốc chẳng cần tí nước nào, những con ốc vú nàng từ thân khá nhiều nước, tự nó đủ nước luộc lấy. Ông chủ quán giải thích: Dân bắt ốc chuyên nghiệp phải ngâm mình dưới nước hàng giờ, dùng đèn soi rọi vào tận kẽ đá rồi lấy mũi dao nhọn tách từng con ốc đang bám chặt vào thành đá. Ốc bắt về ngâm nước cho sạch, xếp vào nồi luộc. Trong giây lát những con ốc vú nàng bắt đầu co dần thịt chuyển sang màu vàng mùi thơm tỏa ra là ốc chín. Tiếp đó chúng tôi được thưởng thức món cua đá hấp bia. Người bắt cua đá ở đây thường bắt vào ban đêm vì ban ngày chúng ở trong hang. Ban đêm là thời gian cua đá ra khỏi hang để kiếm ăn, lúc đó chúng không nhìn thấy gì khi bị ánh sáng dọi vào. Ở Cù Lao Chàm khi ánh nắng mặt trời tắt thì những người bắt cua đá chuẩn bị đồ nghề lên đường cho một đêm thức trắng. Đây là một nghề bất trắc đòi hỏi phải có sức khỏe và sức chịu đựng bền bỉ. Cua đá hấp bia toàn thân ngấm một màu đỏ hồng như gạch, vỏ bóng loáng. Đặc biệt hai cái càng cua ngắn nhưng rất chắc, phải có cái chày hoặc kềm lớn để kẹp mới có thể lấy được phần thịt đầy bên trong, thớ thịt trắng xen những gân hồng nõn nà mà bùi ngọt, ăn thật thấm thía nhớ đời...
 
Tạm biệt Cù Lao Chàm tôi mang về theo cái vỏ ốc lấp lánh ánh xà cừ có những đường vân chìm, nổi rất đẹp. Ruột ốc xoắn lượn cuộn vào đó làn gió nồng nàn của biển khơi. Và khi tôi giơ vỏ ốc lên thì bất ngờ thảng thốt vọng ra tiếng gió u u thổi ngân vang. Tú bảo: Đó là ốc gọi hồn. Gọi hồn: Cù Lao Chàm ơi…
 
Bút ký: NGUYỄN NGỌC PHÚ