Hiện nay, các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất trong việc gọi tên và phong danh cho vua Kinh Dương Vương thuộc họ Hồng Bàng, cũng như sự tồn tại của nước Xích Quỷ và liệu đây có chính xác là quốc hiệu đầu tiên của nước ta hay không?. Trong bài viết này, độc giả sẽ hiểu thêm về nguồn gốc lịch sử dân tộc ta cách đây 4895 năm qua một loại hình tài liệu lưu trữ đặc biệt đó là Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất trong việc gọi tên và phong danh cho vua Kinh Dương Vương thuộc họ Hồng Bàng, cũng như sự tồn tại của nước Xích Quỷ và liệu đây có chính xác là quốc hiệu đầu tiên của nước ta hay không?. Trong bài viết này, độc giả sẽ hiểu thêm về nguồn gốc lịch sử dân tộc ta cách đây 4895 năm qua một loại hình tài liệu lưu trữ đặc biệt đó là Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới.
|
Mộc bản khắc địa điểm miếu thờ Đức thủy tổ Kinh Dương Vương ở xã Á Lữ, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh |
Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王) là một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử, tương truyền ông là Đức thủy tổ mở ra nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Năm 2879 trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nên nhà nước Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼 tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong số 28 vì sao sáng trên bầu trời). Các vua Hùng là hậu duệ huyết thống của Kinh Dương Vương. Mộc bản sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 1, mặt khắc 1 có chép về thân thế của Kinh Dương Vương như sau: “Vương tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông. Nhâm Tuất, năm thứ 1. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân lần đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho Đế Nghi, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân”.
Như vậy, theo Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thì Kinh Dương Vương làm vua và cai trị đất nước Xích Quỷ từ khoảng năm 2879 trước Công nguyên trở đi. Địa bàn hoạt động của quốc gia Xích Quỷ dưới thời Kinh Dương Vương rất rộng lớn; phía Bắc là miền đồng bằng thuộc lưu vực sông Dương Tử giáp hồ Động Đình; phía Nam giáp với Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ); phía Tây giáp đất Ba Thục; phía Đông giáp biển Đông. Sách Lĩnh Nam chích quái có ghi lại truyền thuyết vua đánh đuổi thần Xương Cuồng dũng mãnh, trừ hại cho dân chúng.
Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng 1 tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh và được nhân dân kính cẩn lập miếu thờ. Mộc bản sách Đại Nam thực lục đệ tam kỷ, quyển 53, mặt khắc 25, 26 có chép: “Miếu Kinh Dương Vương nằm ở xã Á Lữ, huyện Siêu Loại (huyện Siêu Loại nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), tỉnh Bắc Ninh”. Ngôi đền thờ cùng lăng mộ của vua Kinh Dương Vương hiện vẫn còn tồn tại ở làng Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh - nơi duy nhất ở Việt Nam còn nguyên dấu tích Thủy tổ của người Việt.
|
Gian thờ Kinh Dương Vương - vị vua đầu tiên của lịch sử trong khu lăng mộ |
Đền thờ Kinh Dương Vương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại phong kiến Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, là chốn linh thiêng bậc nhất của xứ Kinh bắc. Cứ mỗi lần quốc lễ, triều đình đều sai quan đến tế, nhân dân quanh năm được phụng thờ. Dưới triều Nguyễn, miếu thờ Kinh Dương Vương cũng được các bậc vua chúa quan tâm đặc biệt. Vào năm Minh Mạng thứ 20 (1840), khi bộ Lễ dâng lên vua lời tư của tỉnh Bắc Ninh: “xã Đình Bảng hạt ấy, có lăng tẩm của các vua triều Lý, nhưng chỗ nào là lăng vua thì sự tích không rõ. Và các lăng Kinh Dương Vương, Sỹ Vương, có nên theo ân chiếu tu lý dựng bia hay không?.
Vua Minh Mạng nói: Tên lăng các vua triều Lý đã không xét vào đâu được, lại cùng một chỗ cấm địa. Nên chiểu chỗ lăng, thuê dân sửa đắp cho chỉnh đốn, rồi chọn chỗ đất cao ráo lập một tấm bia đá”.
Đến năm 1874, vua Tự Đức đã hạ lệnh cho địa phương trùng tu, sửa chữa lại: “chỗ miếu thờ Kinh Dương Vương, nếu có hư hỏng gì thì địa phương xét thực, xin chi tiền, giao cho dân sở tại tu bổ, cấm cắt cỏ chăn trâu, định làm lệ mãi mãi”. Đồng thời, nhà vua cũng cho định lại điển lễ thờ tự miếu bậc Đế Vương: Miếu Kinh Dương Vương thờ 1 vị thì mỗi năm cấp cho tiền 100 quan và 10 người miếu phu.
Sở dĩ các vua triều Nguyễn quan tâm đến miếu thờ Kinh Dương Vương bởi vì theo vua Minh Mạng lễ nghi thờ cúng phải nên suy từ gốc nguồn. Mộc bản sách Đại Nam thực lục, quyển 215, mặt khắc 9 có chép về lời nói của vua Minh Mạng: “Sự tích Kinh Dương Vương dẫn chép ở sách “Ngoại kỷ”, thực là vua bắt đầu lịch đại nước ta”. Như vậy, trong tư liệu lưu trữ Mộc bản, Miếu thờ nhân vật Kinh Dương Vương là có thật, Kinh Dương Vương không phải là nhân vật huyền thoại nữa.
Và như để tôn trọng sự thật lịch sử, vào ngày 2/2/1993, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra quyết định công nhận “Di tích lịch sử lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành”. Đến năm 2008, Bộ Văn hóa - Thông tin tiếp tục công nhận đền thờ Kinh Dương Vương là Di tích quốc gia. Hằng năm, cứ đến ngày giỗ của Đức thủy tổ (18 tháng 1 âm lịch) nhân dân khắp mọi miền tổ quốc lại về thắp nén hương thơm tỏ lòng tri ân, hướng về cội nguồn đối với vị vua đầu tiên của lịch sử dân tộc.
THƠM QUANG - MAI DUYÊN