Chuyện thành Vinh từ miền ký ức

07:04, 25/04/2019

Từ tầng cao nhất của Khách sạn Mường Thanh - Phương Ðông, "view" phía nam mở ra một khoảng trời Vinh trải dài về hướng sông Lam. Bên những nhịp cầu Bến Thủy nhộn nhịp lại qua, núi Dũng Quyết sừng sững, chứng tích tòa thành Phượng Hoàng Trung Ðô còn đó in giữa trời xanh giấc mơ định đô không thành của Hoàng đế Quang Trung...

Từ tầng cao nhất của Khách sạn Mường Thanh - Phương Ðông, “view” phía nam mở ra một khoảng trời Vinh trải dài về hướng sông Lam. Bên những nhịp cầu Bến Thủy nhộn nhịp lại qua, núi Dũng Quyết sừng sững, chứng tích tòa thành Phượng Hoàng Trung Ðô còn đó in giữa trời xanh giấc mơ định đô không thành của Hoàng đế Quang Trung. Cũng từ hướng mở tầm mắt chiều nay, hình bóng những nhà máy, xóm làng, ngả đường ngày nào in trang sử liệt oanh lớp lớp công nông tay búa tay liềm vùng lên trong phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Cũng như vẫn còn đây dấu vết đạn bom thời Vinh là tuyến lửa trên hành trình trường chinh cứu nước...
 
Thành phố Vinh ngày càng khang trang, hiện đại
Thành phố Vinh ngày càng khang trang, hiện đại
 
Chọn một góc khiêm nhường trong quán cà phê nhỏ bên góc phố Trường Thi, giữa cái se lạnh cuối xuân, cảm xúc người trở lại thành Vinh nôn nao kỳ lạ. Như có một không gian xưa cũ ào ạt hiện về. Chủ quán hình như nhận ra giọng nói thân thuộc và nét trầm ngâm trong tôi, chị lặng lẽ thay đĩa nhạc Pop thịnh hành bằng những khúc hát mang âm hưởng dân ca xứ Nghệ. Giọng của nữ ca sỹ hàng đầu miền đất “choa” da diết trong giai điệu “Câu đợi câu chờ” của nhạc sỹ Ngọc Thịnh: “Ngày ấy bên bờ sông Lam. Anh nghe câu hò ví giặm. Để một đời anh đi xa. Để ngàn lần anh nhớ mãi...”. Câu hát như đưa hồn người trở về lặn vào ký ức thành Vinh để hồi niệm một thuở thơ ngây của chính đời mình. 
 
Với tôi, thành Vinh là cả một miền ký ức. Tuổi thơ tôi lớn lên giữa một bên là tiếng sóng ì ầm biển Đông và một bên là quầng sáng hắt lưng trời thành phố. Những ngày đánh Mỹ, miền Trung thắt khúc ruột mình hơn ở Vinh. Những đêm nằm dán dưới đáy hầm ướt át để khỏi nổ bung tai vì bom B52 và đại bác Mỹ từ Hạm đội 7, người quê tôi thao thức vì Vinh. Một tiếng nổ bục cũng đủ thót tim người, Vinh ở đó. Ở đó có làng Đỏ, có nhà máy điện, nhà máy diêm, nhà máy gỗ, có cầu phao Bến Thủy và đêm đêm những đoàn xe phủ lá ngụy trang rùng rùng chở cả miền Bắc nghĩa tình và thủy chung ra tiền tuyến. Đường thiên lý Bắc Nam vẫn thông thì dòng tiếp viện vào Nam vẫn còn. Tôi nhớ bom Mỹ dội xuống kho xăng Hưng Dũng lửa cháy ngút trời suốt mấy ngày đêm. Tôi nhớ ngư lôi từ biển trôi ngược lên sông nổ tan phà Bến Thủy. Tôi nhớ phiên chợ Trụ và buổi lễ nhà thờ Nghĩa Trủng trở thành nơi tàn sát tập thể của bom đạn thù. Tôi nhớ tuổi thơ mình trên gồng gánh trong đêm sơ tán qua thành Vinh hoang tàn, đổ nát. Tôi cũng nhớ những trận địa pháo cao xạ bên những triền núi vây quanh thành phố khạc lửa đốt nóng trời đêm và máy bay Mỹ rơi cháy rùng rùng sáng lóa nước sông Lam. Còi tầm nhà máy điện trở thành tín hiệu báo động, báo yên. Nhịp còi tầm là nhịp đập những trái tim xứ Nghệ trong thời chiến tranh. Dòng điện hắt lên từ lưng trời sau mỗi trận bom và sáng ra lá cờ Tổ quốc vẫn phấp phới bay trên đỉnh Dũng Quyết là tín hiệu báo rằng: Vinh vẫn sống!...
 
 Sau chiến tranh, người ta nhớ lại, vùng đất nhỏ bé trên chặng quan trọng của huyết mạch Bắc - Nam này đã phải hứng chịu hơn 250 ngàn tấn bom đạn, ngư lôi của 5.000 lượt đánh phá của kẻ thù. Dưới đạn bom, 1.500 chuyến xe vượt sông Lam chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong bản thống kê, có 127 máy bay giặc bị bắn rơi trên bầu trời Vinh; 13 đơn vị và 7 cá nhân đất Vinh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND trong kháng chiến chống Mỹ... 
 
* * *
 
 Năm 1976, cậu tôi suốt bao năm chinh chiến trở về đã chở tôi trên chiếc xe đạp Thống Nhất đi xem bóng đá ở sân vận động Vinh, đội Thể Công đấu với đội Bông Lúa (Liên Xô cũ). Gọi là sân vận động cho oai, khán đài A được dựng bằng khung tre và hàng rào là những tấm phên nứa. Sau trận bóng, chiếc kem đầu tiên trong đời tôi được ăn ở phố Tam Đồng dù lộ đa phần là đá lạnh cứng nhưng ngon hơn tất cả những cây kem tôi ăn sau đó. Tô phở chỉ toàn thịt bạc nhạc dai nhách và mì làm từ sắn ở cửa hàng mậu dịch Quán Lau tôi đã húp không còn giọt nước. Dù cách Vinh hơn mười cây số nhưng trong tâm khảm của cậu bé quê, Vinh là một thiên đường. “Thiên đường” ngày ấy mới gượng dậy sau đổ nát chiến tranh. Cậu chở tôi qua khu làng Chay vẫn còn nổi chìm ụ pháo. Cậu chở tôi qua Cửa Nam lên chùa Diệc nham nhở hố bom và sập gần hết mái chùa. Cậu chở tôi qua Cổng Chốt - một cổng thành cổ Vinh bị rốc-két bắn cắt cụt nửa thân. Cậu chở tôi qua Bến Thủy với chằng chịt lõm lồi vết thương trên núi, dưới sông. Những công sở, trường học, bệnh viện mới được dựng lại bằng cột tre, mái lá… 
 
 Từ sau Hiệp định Paris, Vinh vươn mình đứng dậy giữa đống đổ nát. Ai những ngày đó cùng sống với Vinh, cùng đi đường vòng qua những hố bom, bước chầm chậm dưới những khu nhà sập, chỉ biết thở dài xót xa: biết đến bao giờ vết thương trong lòng Vinh mới lành da thịt. Thế nhưng, bằng chính bản tính can trường, bằng sự chịu thương, chịu khó, người thành Vinh đã góp từng tấm ván lát hầm, mẩu sắt rỉ và cả những mảnh vỡ đạn bom để dựng lại quê hương. Sau chiến tranh, công việc kiến thiết thành phố gần như hoàn toàn trông chờ vào sự viện trợ của các nước bạn như Liên Xô (cũ), Ba Lan, CHDC Đức… và dấu ấn lưu lại là những công trình như cảng Cửa Lò, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam - Ba Lan, khu phố cao tầng Quang Trung, Nhà Văn hóa thiếu nhi Ten-lơ-man… Những năm tháng ấy, chuyên gia các nước bạn cùng chia sẻ kham khổ với người dân Vinh, cùng ăn cà pháo, rau muống, uống nước chè xanh trong những ngày khởi đầu kiến thiết. Vinh cũng lập kỷ lục, là chỗ đứng chân của tám công ty xây dựng với hàng vạn công nhân. Khi tất cả những người bạn quốc tế ra đi, Vinh lại trở về với nhịp điệu của chính mình. Và hôm nay, công việc ấy, nhịp điệu ấy vẫn còn tiếp diễn…
 
 * * *
 
 Một lãnh đạo tỉnh Nghệ An, nói với tôi rằng: “Vinh có trăm ngàn thuận lợi và trăm ngàn khó khăn trong một chữ “trẻ”. Chính sự trẻ ấy là “vạn sự khởi đầu nan” và cũng chính sự trẻ ấy mà tạo cho Vinh rất nhiều thuận lợi trong việc quy hoạch, quản lý, mở mang đô thị; chính sự trẻ ấy mà đất và người thành Vinh có nhiều cơ hội để năng động và tiếp thu…”. Đúng như vậy, thành phố Vinh dày trong lịch sử - văn hóa và trẻ trong đổi mới, dựng xây. 
 
 Hôm nay ngắm Vinh, sau chừng ấy tháng năm, đống hoang tàn ngày xưa đã trở thành đô thị loại I, trung tâm quan trọng khu vực bắc miền Trung. Vinh đã mang trong mình một gương mặt sáng sủa và đầy tính “mở” của một đô thị trong thời hội nhập. Những nhà máy, những công trình, những khu công nghiệp Bắc, Nam Vinh, những trung tâm thương mại mọc lên nhanh chóng. Hệ thống giao thông nội thị phong quang, rộng rãi. Những con đường từ Vinh mở rộng ra với bên ngoài bằng tất cả các loại phương tiện: đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy. Vinh rộn rã, tấp nập. Vinh ồn ào náo nhiệt. Vinh trở thành một thành phố không ngủ, kể từ ngày nước nhà đổi mới Vinh làm kinh tế biển với cảng Cửa Lò, Vinh làm công nghiệp với sự kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, Vinh làm du lịch với một hệ thống di sản lịch sử, biển, rừng và di tích, thắng cảnh nổi tiếng, Vinh kết nối với khắp ba miền. Thành phố Vinh đã bước qua cái thời “nhà không số, phố không tên”, vượt qua buổi “cơm cao gạo kém”, xếp hàng mua rau muống. Không ai còn nhắc những câu vần vè dân gian tự trào của thưở ấy: “Về thành Vinh thấy nhục” hay “Năm 82 gạo cũng 82. Dân xứ Nghệ mắt vàng như Nghệ”. Nhưng để bước kịp với nhịp điệu hiện đại thì với Vinh vẫn còn là một sự đợi chờ. Hãy nhìn, sáng sáng những người dân ngoại ô từ năm ngả đổ về thành phố với 1.001 nghề mưu sinh. Nếu bàn về sự phân hóa giàu nghèo thì Vinh có tốc độ cực nhanh. Ở Vinh, có những doanh nhân xây biệt phủ riêng có giá mấy trăm tỷ đồng và cũng có những khu ổ chuột với những lớp bình dân chỉ kiếm nổi vài chục mỗi ngày. Cũng ở Vinh, mức độ suy thoái đạo đức xã hội, những tệ nạn xã hội lên tốc độ chóng mặt. Kinh tế phát triển nhanh và những căn bệnh đô thị như thiếu điện, thiếu nước, ô nhiễm môi trường cũng phát triển theo. Gần như, dòng sông Lam thơ mộng và các bãi biển Cửa Lò, Cửa Hội đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của một đô thị lớn…
 
* * *
 
 Để ngắm thỏa tầm mắt và cảm nhận về dòng lịch sử thành Vinh cho trọn vẹn hơn, tôi và hai người bạn đồng nghiệp đã trèo lên Dũng Quyết. Đứng trên đỉnh núi, hoài cổ trước dấu xưa Phượng Hoàng Trung Đô là lúc chợt suy ngẫm về mối quan hệ vua - tôi đặc biệt độc đáo giữa Hoàng đế Quang Trung và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Đó là cuộc gặp gỡ có một không hai trong lịch sử dân tộc. Cuộc tâm giao vì đại nghĩa giữa vị anh hùng chí lớn tài cao và đại sĩ phu chối bỏ công danh lui về thôn sơn ẩn dật. Thành phố Vinh - Nghệ An chưa một lần thực sự là đất đế đô, nhưng sử sách ghi rõ, trên thực tế Hoàng đế Quang Trung đã chọn cố hương để lập kinh thành. Tiếc thay, sự nghiệp của người anh hùng áo vải giữa đường đứt gánh, ông qua đời ở tuổi bốn mươi sau nhiều năm chinh chiến và năm năm trị vì đất nước. Giấc mộng mở mang cơ nghiệp của Nguyễn Huệ không thành, nhưng dấu tích và tên gọi Phượng Hoàng Trung Đô thì mãi mãi lưu vào sử sách. Trên mỗi hòn đá, cành cây của ngọn núi Dũng Quyết nổi tiếng này như còn văng vẳng chiếu thư Hoàng đế áo vải cờ đào: “Nhớ lại buổi hồi loạn kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, Quả Cung đã từng mở xem địa đồ. Thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng. Có thể chọn để xây dựng kinh đô mới, thực là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy”.
 
Hơn hai trăm ba mươi năm trước, vị Hoàng đế có cội nguồn xứ Nghệ đã nhìn thấy huyệt rồng ở vùng non nước “địa linh”. Dù giấc mộng kinh đô không thành nhưng Vinh của ngày hôm nay đã trở thành một trung tâm phát triển năng động của khu vực bắc miền Trung trong thời đổi mới. 
 
* * *
 
Biển Đông ngoài xa vẫn ỳ ầm vỗ sóng, sông Lam trước mặt uốn khúc dịu dàng và Quốc lộ 1A - con đường thiên lý Bắc Nam tấp nập, rộn rã trải dài trong nắng. Từ đỉnh Dũng Quyết dõi mắt về xa chợt lòng xao xuyến cùng câu ca cũ “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh…”. Non xanh này, nước biếc kia vẫn còn vang vọng dư âm của những năm tháng đã qua, như nhắc nhở những người của hôm nay và mai sau không được phút giây nào lãng quên quá khứ. Hành hương ngày cuối xuân, đôi dòng ghi lại về thành phố quê hương và cho tâm hồn rạo rực ngân theo câu hát của nhạc sỹ Lê Hàm ở cuối đĩa nhạc trong quán cà phê bên góc phố Trường Thi: “Ôi đẹp sao! Trăng treo trên đỉnh núi Quyết trăng trong. Giọng nói miền Trung ngời ân tình xứ sở. Tiếng hát câu hò văng vẳng trời xanh. Thành Vinh sáng ngời nắng tỏa bình minh…”. Và để thấy thành Vinh quê tôi, một gương mặt với nhiều đường nét mở hiện ra giữa miền gió Lào, cát bỏng…
 
UÔNG THÁI BIỂU