Một số danh nhân tuổi sửu trong lịch sử dân tộc Việt Nam

05:02, 16/02/2021

Đại anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" đã viết về đất nước ta: "Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có".

Đại anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã viết về đất nước ta: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.
 
* PHÙNG HƯNG sinh năm Tân Sửu 761, quê ở làng Đường Lâm, nay thuộc thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Sinh thời, Phùng Hưng là người khỏe mạnh và dũng lược. Chính ông đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa lớn, đập tan chính quyền đô hộ của nhà Đường, xây dựng nền độc lập tự chủ trong một thời gian khá dài, được Nhân dân suy tôn là Bố cái Đại vương. Ông mất năm 802 (41 tuổi).
 
* TRẦN QUANG KHẢI sinh năm Tân Sửu 1241. Ông là con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông; là nhà quân sự, nhà ngoại giao, nhà thơ lớn của dân tộc. Dưới triều Trần Thánh Tông (1258 - 1278), Trần Quang Khải được phong tước Chiêu minh Đại vương, từng được cử làm Thượng tướng Thái sư, đứng đầu triều đình. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai sau Trần Quốc Tuấn có nhiều công lao lớn trên chiến trường. Ông còn là một nhà thơ với tâm hồn thơ khoáng đạt, gần gũi, gắn bó với cuộc sống bình dị nhưng hào hùng của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là bài “Tụng giá hoàn kinh sư” được viết sau chiến thắng Chương Dương độ vào tháng 6/1285 - chiến thắng được coi là lớn nhất lúc bấy giờ:
 
“Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu”
(Trần Trọng Kim dịch).
 
* TRẦN NGUYÊN ĐÁN sinh năm Ất Sửu 1325, là danh sĩ nổi tiếng đời Trần, hiệu là Băng Hồ, ông là chắt nội của Trần Quang Khải và là ông ngoại của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Đời Trần Dụ Tông (1341-1369), ông được phong làm Ngự sử đại phu; đời Nghệ Tông lên chức Tư đồ, tước Chương Túc hầu. Ông sống vào lúc triều Trần vào buổi suy vi nên mang trong mình rất nhiều tâm sự. Những tâm sự này được ông đưa vào thơ văn của mình. Đó là lòng thương dân, là cảm giác thấy mình bất lực nên trở thành vô dụng. Năm Ất Sửu (1385) ông về Côn Sơn ở ẩn và mất sau đó 5 năm, vào năm 1390, thọ 65 tuổi. Ông là “cây cột chống trời” cuối cùng của nhà Trần, nên khi ông mất đi triều đình ngày càng nghiêng đổ và chỉ chưa đầy 10 năm sau nhà Trần đã bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Tác phẩm của ông đã mất mát phần lớn, hiện chỉ còn 51 bài thơ chép trong “Trích diễn thi tập”, “Toàn Việt thi lục”.
 
Tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi tại Thanh Hóa
Tượng đài Anh hùng dân tộc Lê Lợi tại Thanh Hóa
 
* LÊ LỢI sinh năm Ất Sửu 1385, kém Trần Nguyên Đán đúng một vòng hoa giáp. Lê Lợi quê tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lê Lợi là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh, là Anh hùng giải phóng dân tộc và là người sáng lập vương triều nhà Lê, mở ra thời kỳ thịnh trị lâu dài trong lịch sử dân tộc. Sau khi đánh thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi vua với hiệu là Lê Thái Tổ, và cũng mất vào năm Sửu (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa.
 
Chân dung thông dụng của vua Tự Đức
Chân dung thông dụng của vua Tự Đức
 
* TỰ ĐỨC sinh năm Kỷ Sửu 1829, tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, húy là Thì, là con thứ hai của vua Thiệu Trị và mẹ là Phạm Thị Hằng (Từ Dụ Hoàng Thái Hậu. Đức Từ Dụ (sau gọi và viết sai thành Từ Dũ) là con gái thượng thư Phạm Dăng Hưng người Gia Định xưa, nay thuộc Tiền Giang. Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên ngôi vua năm 1847 lấy niên hiệu là Tự Đức. Ngài lên ngôi giữa lúc nước nhà đang đứng trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Tự Đức có lỗi trong việc để Pháp chiếm mất Nam Kỳ nhưng nhà vua là người uyên bác, cần kiệm, chăm chỉ trong chức vụ và có nhiều đóng góp cho nền văn hóa nước nhà. Đặc biệt Tự Đức là người con rất có hiếu. Tự Đức ở ngôi Hoàng đế 36 năm và băng hà ngày 16/6 năm Quý Mùi (1883) giữa cảnh đất nước ngổn ngang trăm mối, miếu hiệu là Dực Tôn anh Hoàng đế.
 
* NGUYỄN VĂN TỐ sinh năm Kỷ Sửu 1889, quê Hà Đông - Hà Nội, là học giả nổi tiếng. Nguyễn Văn Tố (1889-1947), bút hiệu Ứng Hòe, quê ở Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Cụ Nguyễn Văn Tố là người thông thạo cả Hán văn và Pháp văn. Sau khi đỗ bằng Thành chung (Trung học) tại Pháp cụ về nước và làm tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Có thời kỳ cụ đảm nhiệm nhiệm vụ là Hội trưởng Hội Trí Tri, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ trước năm 1945 do Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương thành lập. Là một nhà khoa học, nhà giáo dục nhưng Nguyễn Văn Tố còn là một nhà báo. Cụ thường viết bài cho các báo và tạp chí thời đó như Trí Tân, Đông Thanh, Thanh Nghị và các báo về tiếng Pháp. Nguyễn Văn Tố không những là thành viên rất sớm của phong trào khai sáng dân tộc Việt đầu thế kỷ XX - phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ông còn là nhà sử học đã biên soạn 2 bộ sử học đồ sộ “Đại Nam dật sử” và “Sử ta so với sử Tàu”. Rất nhiều các trí thức cả người Việt và người Pháp khi ấy đều rất kính nể cụ và thường xuyên nhờ cụ sửa bài. 
 
Ngày 9 tháng 8 năm 1945, chỉ 6 ngày sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ để tiêu diệt giặc dốt chính là tiếp nối thành quả của Hội truyền bá quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng trước đó. Sau Cách mạngTháng Tám năm 1945, nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Nguyễn Văn Tố đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội trong Chính phủ cách mạng lâm thời. Trong Cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội khóa I ngày 6/1/1946, cụ Nguyễn Văn Tố được quốc dân bầu làm đại biểu Quốc hội. Trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa I ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bầu cụ làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội (tức Chủ tịch Quốc hội). Cụ giữ nhiệm vụ này đến ngày 8/11/1946 và chuyển giao cho cụ Bùi Bằng Đoàn. Trước đó, ngày 3/11/1946, cụ đã nhận nhiệm vụ mới là Bộ trưởng không Bộ trong Chính phủ.
 
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cụ cùng Chính phủ lên Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân. Ngày 7/10/1947, giặc Pháp cho quân nhảy dù xuống Bắc Kạn với mưu đồ bắt toàn bộ Chính phủ Việt Nam. Trong đợt càn quét này của quân Pháp, cụ Nguyễn Văn Tố đã bị giặc bắt. Khi mới bắt được cụ Nguyễn Văn Tố, giặc Pháp tưởng bắt được Cụ Hồ. Cụ đã dùng tiếng Pháp để thuyết phục quân Pháp chấm dứt chiến tranh. Sau khi tra tấn cụ dã man, giặc Pháp đã giết cụ. Sau này, trong hồi ký của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết cụ Nguyễn Văn Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta lúc bấy giờ. 
 
Năm 1948, Nhà nước đã tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Hồ Chủ tịch đã đích thân soạn thảo bài văn tế cụ và đã dành những lời trân trọng, thống thiết, sâu sắc để tưởng nhớ cụ: “Nhớ cụ xưa/ Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu/ Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết/ Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng/Phú quý công danh, cụ nào có thiết…”. 
 
* TRẦN HUY LIỆU sinh năm Tân Sửu 1901, quê Vụ Bản, Nam Định. Ông là nhà báo, nhà văn, nhà sử học, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, là đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng nhưng sau này ly khai tổ chức này và gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông là người sáng lập ra Cường học thư xã ở Sài Gòn (1928), chuyên xuất bản sách và cổ vũ tinh thần yêu nước. Từng bị thực dân Pháp bắt và đưa đi đày ở Côn Đảo, Sơn La. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được bầu là Phó Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng. Sau đó ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời. Cuối tháng 8/1945, ông cùng Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận vào Huế tiếp nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại. Sau này ông chuyên tâm nghiên cứu khoa học lịch sử, làm Viện trưởng Viện Sử học và qua đời năm 1969. Ông được Viện Hàn lâm khoa học Cộng hòa Dân chủ Đức (cũ) mời làm viện sĩ. Năm 1996, ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về văn học nghệ thuật.
 
* PHÙNG CHÍ KIÊN sinh năm Tân Sửu 1901, quê Diễn Châu, Nghệ An, từng theo học các lớp huấn luyện cán bộ tại Quảng Châu do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở; học viên Trường Võ bị Hoàng Phố. Năm 1931, ông vào học đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Moskva, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1941). Ông hoạt động thường xuyên tại Hồng Kông, Côn Minh (Trung Quốc) và Cao Bằng. Ông là người chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, bị thực dân Pháp bắt và xử tử bằng cách chặt đầu năm 1941. Ông là người học trò gần gũi và thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cán bộ tiền bối của Đảng và là nhà quân sự có tài.
 
VŨ TRUNG KIÊN