Chi trả dịch vụ môi trường rừng - một chính sách mang tính đột phá

05:11, 11/11/2022
Chi trả dịch vụ môi trường rừng được thực hiện tại Lâm Đồng kể từ khi triển khai thí điểm năm 2009 theo Quyết định 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. 10 năm triển khai tại Lâm Đồng, chi trả dịch vụ môi trường rừng được đánh giá là một trong những chính sách lâm nghiệp mang tính đột phá và mang lại nhiều hiệu quả thiết thực ở nhiều khía cạnh. 
 
Rừng Lâm Đồng được quản lý, bảo vệ tốt hơn nhờ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng
Rừng Lâm Đồng được quản lý, bảo vệ tốt hơn nhờ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng
 
Theo số liệu của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Lâm Đồng, các đối tượng chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh tính đến năm 2022 là 61 đơn vị, trong đó có 43 nhà máy thủy điện, 13 cơ sở sản xuất và kinh doanh nước sạch, 5 cơ sở sản xuất công nghiệp và 17 đơn vị kinh doanh du lịch (từ năm 2020 các đơn vị kinh doanh du lịch chi trả trực tiếp). 
 
Tổng số tiền dịch vụ môi trường rừng thu được từ 2009 - 2021 là 2.628 tỷ đồng (bình quân 219 tỷ đồng/năm). Trong đó, thu từ các nhà máy thủy điện chiếm 95% tổng thu. Một số nhà máy thủy điện có số tiền nộp hàng năm trên 25 tỷ đồng/đơn vị gồm Đa Nhim, Đại Ninh, Đồng Nai 4, Trị An, Hàm Thuận - Đa Mi...
 
Diện tích rừng cung ứng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng hàng năm ước đạt 400.000 ha, chiếm hơn 73% tổng diện tích rừng toàn tỉnh. Với mức chi trả bình quân từ 550.000 - 650.000 đồng/ha/năm. Từ năm 2011 - 2021, tổng số tiền dịch vụ môi trường rừng đã chi trả cho các chủ rừng thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng là 2.126 tỷ đồng. Đối tượng được chi trả gồm các chủ rừng là tổ chức nhà nước như công ty TNHH MTV lâm nghiệp, ban quản lý phòng hộ, vườn quốc gia; doanh nghiệp thuê rừng; hộ gia đình và cộng đồng. Trong đó, chủ rừng là tổ chức nhà nước (công ty TNHH MTV lâm nghiệp, ban quản lý phòng hộ, vườn quốc gia) chiếm trên 90% diện tích được chi trả và 95% diện tích này chủ rừng ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng đến hơn 16.000 hộ/năm tạo thu nhập cho hộ từ 12 - 18 triệu đồng/hộ/năm, trong đó có tới 70% là đồng bào dân tộc thiểu số.
 
Qua hơn 10 năm thực hiện tại Lâm Đồng, chi trả dịch vụ môi trường rừng được đánh giá là một trong những chính sách lâm nghiệp mang lại hiệu quả thiết thực. Trong đó, phải kể đến những thay đổi trong nhận thức về chính sách chi trả và trách nhiệm đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng của các cấp ủy đảng, cán bộ, Nhân dân trên địa bàn tỉnh, từ đó tạo được sự đồng thuận trong thực hiện chính sách. Hàng năm, các đối tượng phải nộp tiền dịch vụ môi trường rừng cũng đã thực hiện nghiêm túc việc kê khai, nộp tiền, không có nợ đọng. Đối tượng cung ứng đã có trách nhiệm hơn trong công tác bảo vệ rừng và rừng được bảo vệ tốt hơn. Chính quyền các cấp phối hợp tốt hơn trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lâm nghiệp tại địa phương.
 
Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng còn tạo ra nguồn tài chính lớn hỗ trợ đáng kể nguồn chi từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương, ý nghĩa hơn là nguồn thu này có yếu tố bền vững và không đánh đổi bằng giá trị trực tiếp của rừng là khai thác, bán sản phẩm tài nguyên rừng. Hoạt động khoán bảo vệ rừng từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng của các chủ rừng nhà nước đã góp phần cải thiện sinh kế và đời sống của các hộ dân, nhất là đồng bào dân tộc tại địa phương. Với đơn giá chi trả bình quân từ 550.000 - 650.000 đồng/ha/năm, trong đó, đơn giá chi trả cho khoán đến hộ: 500.000 - 600.000 đồng/ha/năm và diện tích nhận 25 - 30 ha/hộ, đã tạo nguồn thu nhập 12 - 18 triệu đồng/hộ/năm. Nguồn thu này đã góp phần cải thiện đời sống cho hơn 16.000 hộ tham gia bảo vệ rừng. 
 
Ngoài ra, chính sách này còn góp phần giải quyết khó khăn về kinh phí hoạt động cho các chủ rừng nhà nước. Theo đó, nguồn thu từ tiền dịch vụ môi trường rừng của các chủ rừng nhà nước (từ 10% chi phí quản lý khoán bảo vệ rừng và một phần thu từ diện tích tự quản lý), đã góp phần giải quyết khó khăn về nguồn kinh phí hoạt động cho các đơn vị trong điều kiện kinh phí được cấp còn hạn hẹp. Từ nguồn kinh phí này, các chủ rừng chủ động hơn trong việc tổ chức lực lượng, hướng dẫn, đôn đốc và cùng với lực lượng nhận khoán tổ chức bảo vệ rừng có hiệu quả hơn.
 
NGUYỄN NGHĨA