Dưới rừng sao núi

05:02, 06/02/2020

Chị tần ngần đứng trước căn nhà cấp bốn nằm khiêm tốn bên thung đồi ngàn thông xanh mượt ngoại ô thành phố Đà Lạt. Theo địa chỉ anh cho thì chắc chắn nơi đây rồi...

Chị tần ngần đứng trước căn nhà cấp bốn nằm khiêm tốn bên thung đồi ngàn thông xanh mượt ngoại ô thành phố Đà Lạt. Theo địa chỉ anh cho thì chắc chắn nơi đây rồi. Căn nhà nho nhỏ xinh xinh đứng dưới trưa cứ nhìn chị đăm đăm như thể đang lục tìm trí nhớ người đang trước ngõ nhà mình quen hay lạ? Còn chị thì trong trạng thái háo hức vui mừng xen lẫn chút âu lo, thực mơ lẫn lộn. Chị vẫn không nghĩ mình có thể vượt cả ngàn cây số, ngồi ròng rã suốt hai ngày hai đêm để đi tìm anh. Có phải tình đồng đội thôi thúc hay tiếng của con tim réo gọi? Dường như có thể cả hai. Chị ghé mắt nhìn qua cổng gỗ màu sơn đã cũ. Hoa tường vi hai bên cổng leo kín, khoe những chùm bông màu hồng xinh đẹp, ấm áp, những đóa hoa kỳ diệu kết tinh từ đất lành như nụ môi thơm chào đón, gọi mời. Chị quan sát một lúc, dường như nhà không có ai thì phải khi cửa khóa im lìm.
 
Minh họa: Phan Nhân
Minh họa: Phan Nhân
 
Định gọi điện báo tin cho anh nhưng chị lại thôi, chờ thêm một vài tiếng nữa có sao đâu? Vả lại chị muốn tạo sự bất ngờ để cảm nhận tình cảm của người đồng đội cũ. Để hành lý bên gốc thông già, chị thong dong ngước mắt ngắm nhìn phong cảnh thung đồi. Ở đây nơi nào cũng đẹp, cũng thơ mộng như tranh vẽ. Chiều dần nghiêng bóng nắng, những làn sương trắng từ dải Lang Bian rủ gọi nhau về rồi sà xuống lòng phố nũng nịu hồn nhiên. Đây đó phố phường trong bồng bềnh sương như lòng chị bồng bềnh xuyến xao lần đầu hiện diện nơi này. Nhớ hôm gặp anh, kết bạn trên facebook. Khi vào trang cá nhân anh chị ngỡ ngàng, thầm reo lên vui mừng khi biết anh chính là người đồng đội cùng phòng, cùng đơn vị năm nào. Thế là hai người nhận ra nhau sau gần mấy chục năm tưởng không còn gặp lại khi mất liên lạc. Chị nhớ cuối tháng hai năm 1979, khi đất nước Ăng Co chìm trong biển máu của sự diệt chủng; biên giới Tây Nam của Tổ quốc bị giặc Khơ Me đỏ tấn công, tàn sát dân lành vô tội, đơn vị chị nhận lệnh phải tăng cường một trung đoàn quân sang giúp nước bạn. Trong đoàn quân tình nguyện không hiểu tại sao lại có tên anh, người chiến sĩ trẻ, đa tài của ban tuyên huấn sư đoàn, người cùng phòng chính trị với chị. Trước ngày anh khoác ba lô lên đường sang Campuchia, hai người gặp nhau tâm sự, hò hẹn rồi chia tay. Đêm ấy, hai mái đầu xanh chụm vào nhau dưới con trăng rừng mười sáu rắc đầy ánh vàng mơ lên khắp cây cỏ, hoa lá như báo điều lành cho người đi, kẻ ở... Anh đi, sáu tháng, rồi một năm. Mọi liên lạc về chị, về hòm thư đơn vị cũ thưa dần, thưa dần rồi vắng bặt... Ngày ngày chị nấn ná đợi chờ rồi ra quân phục viên, chuyển ngành về lại thủ đô. Chị lập gia đình như bao người con gái trễ muộn tình duyên. Chồng chị cũng là người Hà Nội, cũng lính từ chiến trường B trở về với thân thể mang đầy vết đạn bom. Lấy nhau cả chục năm mà gia đình nhỏ của chị vẫn thiếu vắng tiếng trẻ thơ. Chồng chị càng thương người vợ trẻ khi biết mình nhiễm chất độc da cam, vô sinh. Anh qua đời sau vết thương cũ tái phát giữa cái rét buốt vô cùng của mùa đông xứ Bắc. Cuộc đời chị như con thuyền đơn độc trên biển trần gian nan, những con sóng đời cứ miên man vỗ vào hồn chị nửa như an ủi, nửa như trêu ghẹo nỗi trống vắng cô đơn. Cũng may chị còn có bạn bè cùng cơ quan. Chiều cuối tuần hay những ngày lễ... vẫn có người nhắn tin, gọi điện hú nhau rúc quán cà phê nhâm nhi giọt buồn hay tung tẩy đạp xe lông nhông ngắm cảnh hồ Tây, Trúc Bạch... để quên bớt nỗi chông chênh, trống trải. Chị nhớ hôm gặp anh trên mạng, những kỷ niệm của thời mặc áo lính, những năm tháng đóng quân trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ, đầy gian nan tưởng đã lãng quên, chìm sâu dưới đáy thời gian quá khứ, ai ngờ bỗng thức dậy chập chờn trong trái tim bé nhỏ cút côi. Hình ảnh anh năm nảo, năm nao cứ hiện về như ngọn heo may dịu mát từ phía sông Hồng thổi miên man vào tiềm thức làm chị thức thao, nằm nhớ vô cùng...
 
Chị được thủ trưởng ban chính sách cử lên bưu điện thị xã Ban Mê gửi thư, quà và tiền hỗ trợ về các gia đình thương bệnh binh, neo đơn trong đơn vị nhân dịp cuối năm... Và anh cũng được ban tuyên huấn sư đoàn cử đi đặt mua báo chí cho toàn đơn vị. Sáng hôm ấy hai người được thủ trưởng bố trí đi nhờ xe hậu cần sắp lên thị xã mua thực phẩm. Khi đi, cả đoàn thống nhất với nhau là sẽ đợi, sẽ cùng về lại đơn vị chậm nhất 15 giờ chiều cùng ngày tại ngã ba Hòa Bình thị xã. Bưu điện những ngày cuối năm đông kín người đến giao dịch. Hầu như mọi cơ quan, xí nghiệp đóng trên Đắk Lắk đều đổ dồn vào nơi này để ký gửi bưu phẩm, bưu kiện, chuyển nhận quà tết cho người thân, gia đình. Chị và anh cùng xếp hàng theo thứ tự, khi cả hai làm xong việc đã sém 17 giờ chiều. Sực nhớ lời hẹn, hai người hối hả chạy bộ ra ngã ba Hòa Bình, hy vọng xe hậu cần còn đợi...
 
Buôn Ma Thuột những năm vừa giải phóng còn nghèo. Hình hài thị xã vẫn loang lổ nhiều vết đạn bom. Quốc lộ 26 từ Khánh Dương lên thị xã, hai bên rừng núi còn kín bưng dày đặc, hoang vu. Lác đác hai bên quốc lộ vài buôn làng người dân tộc Ê Đê đìu hiu sinh sống. Sau trận đánh mở màn vào Buôn Ma Thuột thắng lợi, tạo thế cho Cuộc tổng tấn công nổi dậy làm nên đại thắng 1975 lịch sử. Con đường xuôi về đèo Phượng Hoàng giáp giới Ninh Hòa - Nha Trang còn đầy xác xe nhà binh, áo quần, giày mũ của lính chính quyền Sài Gòn tháo chạy. Người dân thị xã còn chưa hết bàng hoàng khi cuộc chiến vừa kết thúc. Không ít gia đình có thân nhân, họ hàng phục vụ trong hệ thống chính quyền cũ nơm nớp lo sợ, chưa thể mặn mà với bộ đội nếu không nói là thiếu thân thiện. Buôn Ma Thuột sau 1975 nhà trọ, phòng nghỉ cũng rất ít, tìm một nơi nghỉ qua đêm là khó vô cùng. Chị và anh đi hỏi khắp mọi nơi chỉ nhận cái lắc đầu e ngại. Hai người lúng túng khi nhìn mặt trời đang rụng dần xuống dãy núi Chư Yang Sin, không biết đêm nay ngủ đâu, chẳng lẽ ngồi thức suốt ngoài đường. Bỗng chị reo lên khi sực nhớ tháng trước đơn vị có chở chị cùng anh chị em trong cơ quan lên nhà chú Biên, bạn của thủ trưởng ban chính sách xin hom củ mì về trồng, tăng gia sản xuất. Chị nhớ đinh ninh hôm đó từ ngã ba Hòa Bình xe rẽ Quốc lộ 14 hướng về Gia Lai, Kon Tum đâu chừng mấy cây số thì phải, gần lắm, nhà chú Biên nằm sát quốc lộ rất dễ tìm. Thế là hai người quyết định khoác ba lô đi tìm nhà bạn của thủ trưởng để nhờ tá túc qua đêm. Hối hả đi dưới cái nắng ngày đã tắt, đêm Tây Nguyên huyền bí đang ập xuống chực chờ. Bữa ấy cuối tháng, trời không trăng, âm u tối đen như mực. Tình hình an ninh ở đây vừa giải phóng còn lắm phức tạp. Bọn Fulrô đang hoạt động khắp nơi, đã có nhiều vụ chúng liều lĩnh tấn công vào các buôn làng để cướp bóc lương thực, thực phẩm. Có khi chúng ẩn nấp trong rừng xả súng vào xe bộ đội, xe chở hành khách qua đường.
 
 
Đi hơn nửa giờ đồng hồ mà chẳng thấy dấu vết nhà chú Biên, cả hai đều sốt ruột, không biết chị còn nhớ hay lạc đường. Trời vào đêm núi rừng càng thêm lạnh, càng đi càng vắng. Anh bảo chị dừng lại nghỉ cho bớt mỏi chân để anh đi tìm một khúc gỗ hoặc cây cà phê khô làm vũ khí phòng khi bất trắc. Đêm Tây Nguyên lồng lộng gió, chi chít một trời sao, cũng nhờ ngàn ánh sao sáng rọi đường đủ cho hai người định hướng tìm nhà. Đang đi, bỗng một bóng đen phía trước chạy vụt qua đường, chị hoảng sợ ôm chầm lấy anh, anh cũng hồi hộp không kém nhưng giữ được bình tĩnh kéo chị nấp vào gốc rừng cao su, nép mình nghe ngóng. Chung quanh vẫn im lặng như tờ, có lẽ bóng đen vừa vụt qua là thú rừng đi ăn đêm cũng nên. Màn đêm âm u, lũ đom đóm bay lượn chờn vờn như hù dọa, lập lòe ánh ma trơi xanh lét. Chỉ có tiếng thở gấp gáp của chị là rõ mồn một, hơi thở người con gái đồng hành cứ phả vào gáy anh, cả bầu ngực trinh nữ đang áp sát vào lưng anh nóng bỏng. Nấp một hồi chẳng nghe động tĩnh gì, hai người tiếp tục cuộc hành trình, đêm vẫn huyền bí như nhà mồ Tây Nguyên, thi thoảng tiếng tắc kè gọi bạn, tiếng con mang tác bìa rừng nghe thê thiết. Chị vẫn còn sợ, cứ ôm chặt tay anh lặng lẽ bước theo. Nhiều lần vấp phải sỏi đá ven đường, té chúi nhủi vào anh, có lúc anh phản ứng không kịp, cả hai té lăn xuống đường. Và chừng như không quen đi bộ, vượt chặng đường quá xa, bàn chân chị phồng rộp, đau nhức, buộc lòng anh phải cõng chị kiên nhẫn bước. Cuối cùng hai người cũng tìm ra nhà chú Biên thì đã đúng 11 giờ khuya. Chủ nhà dậy mở cửa, hỏi han rồi dọn cơm cho hai người ăn lót lòng đỡ đói. Tưởng mọi việc đến đây suôn sẻ, ai ngờ đến chuyện chỗ ngủ thì nan giải. Chú Biên từ ngoài Bắc mới vào khu kinh tế mới nên nhà cửa tranh tre nứa lá vừa mới dựng còn sơ sài, thiếu thốn đủ mọi thứ. Nhà chỉ có một chiếc giường tre dành cho cả gia đình vợ chồng con cái, hai người đến thình lình, đột xuất nên chưa biết bố trí nằm đâu cho tiện qua đêm. Ác nỗi xứ sở này dân cư rất thưa thớt, còn hoang vắng, cây cối lại mọc um tùm như rừng nguyên sinh nên ngày lẫn đêm muỗi mòng sinh sôi nẩy nở càng nhiều, mới ngồi một lát mà hai người đã bị chúng tiêm chích nhiều phát ngứa ngáy đến khó chịu. Thím Biên lặng nhìn hai cô chú bộ đội trẻ măng của đơn vị bạn của chồng, nghĩ thầm chắc là đôi tình nhân, nếu không, sao đôi trai gái này dám cùng đi trong đêm vắng cả chục cây số. 
 
- Thôi hai cô chú thông cảm cho gia đình, chắc phải lật tạm chiếc nong chú vừa đan xong, trải tạm chiếc chiếu mà nằm nghỉ. - Thím Biên nói xong, ra hiên lật chiếc nong mới đan còn mới toanh thơm mùi tre nứa xuống nền đất. Biết chẳng còn cách nào, hai người đành móc màn nằm chung trước hiên nhà. Lúc ấy sao mà mắc cỡ quá chừng, chị cứ nóng bừng đôi gò má khi lần đầu tiên nằm chung với con trai. Anh bữa đó cũng lúng ta lúng túng như gà mắc tóc, nằm quay đầu không dám cựa quậy, sợ vô tình chạm phải cô bạn đồng hành, sẽ bị nghĩ lầm, thủ trưởng, bạn bè đơn vị mà biết được thì khốn khổ.
 
Chị nhớ đêm đó cả hai ngượng ngùng, nằm im như thóc, trằn trọc, bốn con mắt lặng im ngó bầu trời đầy sao rồi nghĩ chuyện vừa xảy ra trên dọc đường. Và có lẽ thấm mệt sau chặng đường dài đầy hiểm nguy cả hai đều chìm trong giấc ngủ say tự lúc nào... Đến khi thím Biên dậy sớm nấu cơm, thấy hai người ôm nhau ngủ, thím ý tứ mỉm cười se sẽ bước chân, sợ làm họ thức giấc.
 
Tiếng xe máy từ dưới đồi vọng lên cắt đứt dòng hoài niệm. Nhìn người đàn ông hơi gầy dong dỏng cao đang cưỡi xe đến cổng hoa tường vi giống như trong hình đại diện, chị mừng rỡ gọi: 
 
- Anh, anh Nguyên có phải không?
 
Người đàn ông đang xuống xe, định với tay cầm đôi nạng gỗ dắt trên xe, nghe tiếng gọi, anh quay lại sững sờ khi nhận ra chị: - Trời! Hằng... phải không? Em vào sao không báo trước để anh ra đón.
 
Chị theo anh vô nhà, nhìn sân vườn xinh xắn, đâu cũng hoa, đâu cũng sắc màu bung nở, đâu cũng ngào ngạt hương thơm, chị thấy hồn mình mê thích đắm say. Trong bữa cơm chiều do chị giành nấu nướng, họ bên nhau cùng so đũa, cùng ân cần mời nhau mừng ngày hội ngộ như đôi vợ chồng son mới cưới. Khi hỏi ra, chị mới biết anh sống độc thân từ ngày rời chiến trường K đến giờ vì chẳng muốn người đàn bà, con gái nào phải chịu khổ vì anh khi một phần thân thể gửi lại chiến trường trong tháng ngày còn đạn bom, khói lửa...
 
Hai người kể cho nhau quãng thời gian của riêng mình trong những tháng năm qua. Đột nhiên anh hỏi chị: 
 
- Hằng biết tay Toàn, ban quân lực đơn vị cũ không?
 
Chị ngạc nhiên nhìn anh: 
 
- Tay đó em quen, anh ta cứ bám theo tán tỉnh em, nhưng em không thích. Mà sao anh nhắc Toàn ở đây?
 
Nguyên mỉm cười:
 
- Chính Toàn đề nghị bổ sung anh tham gia cùng trung đoàn sang Campuchia năm đó...
 
Chị chợt vỡ lẽ và hiểu ra nguyên nhân vì sao một lính văn phòng như anh lại có tên trong đoàn quân tình nguyện. 
 
Chiều Đà Lạt đẹp lạ lùng, anh trên đôi nạng gỗ thong thả dẫn chị đi thăm vườn hoa bé nhỏ của mình. Lối xuống dốc đồi đầy sỏi đá, chị vô tình lại vấp ngã, anh hốt hoảng đến đỡ chị lên, ân cần hỏi có trầy xước, đau ở đâu không để anh vô nhà lấy dầu xoa bóp. Chị lại nhớ đêm xưa mấy lần té chúi nhủi vào anh, nhớ nhất sáng hôm thím Biên gọi dậy, ngượng đỏ mặt khi thấy anh ôm chặt mình ngủ ngon lành. Đôi tay chị lúng túng gỡ tay anh, rụt rè ngồi dậy chỉnh lại áo quần xộc xệch, tóc rối, đầu bù như vừa trải qua cuộc chiến... Anh và chú thím Biên cũng đâu biết chị đã giấu chuyện nửa đêm về sáng vì trời quá lạnh đã lén quay đầu rồi chui vào ngực anh tìm hơi ấm.
 
Sau cái đêm đầy lãng mạn ấy, về lại đơn vị, tình cảm hai người thắm thiết hơn. Mấy đứa bạn cùng phòng cứ truy vấn, tra khảo chị, chúng hỏi đêm hôm đó hai người trốn ngủ ở đâu? Có làm chuyện gì không? Có đứa bảo hai người quá đẹp đôi, chắc mai này sẽ lấy nhau, thành chồng thành vợ. Hầu như cả đơn vị ai cũng động viên, ủng hộ.
 
Thấm thoát mới đêm nào mà nay đã hơn bốn mươi năm. Chị lén nhìn anh tóc đã hoa râm, ngó xuống mình cũng đã héo gầy đâu còn trẻ trung gì nữa... Chị khẽ thở dài, thời gian tưởng chậm mà nhanh thật. Anh nhiệt tình mời chị ngủ nghỉ tại nhà khi chị nằng nặc đòi ra phố thuê phòng trọ, anh bảo: “Hằng đã vượt cả nghìn cây số đến thăm thì có gì mà ngại, ở lại nhà chơi vài hôm, thuê khách sạn, phòng trọ chi cho tốn kém...”.
 
Đêm ngoại ô Đà Lạt yên tĩnh vô cùng. Ngoài hiên xào xạc tiếng ngàn thông thầm thì trong gió, ngỡ như lời hò hẹn của xứ sở tình yêu. Chị nằm trên giường trải nệm ấm, chăn êm mà không tài nào chợp mắt, lòng cứ nghĩ bâng quơ. Ngó sang giường anh thấy trống trơn, tự nhiên chị ngồi dậy nhẹ bước ra sân tìm. Trời khuya phủ trắng sương như bức màn đắp cho phố ngàn hoa ngủ. Ngàn sao li ti rải khắp bầu trời, nhấp nháy như ánh mắt người tình thao thức gọi chờ mong. Chị thấy anh ngồi lặng yên trên ghế đá đặt bên vườn... Tiếng guitar dìu dặt bổng trầm từ nơi anh ngân nga. Một bản tình ca quen thuộc. Phải rồi! Bài hát ngày xưa anh viết tặng chị sau một đêm hai đứa vượt đường rừng... Lòng chị bỗng rạo rực nhớ chiếc nong mới tinh nhà thím Biên năm nào đẹp như vầng trăng rằm viên mãn đã chở chị và chú Cuội trẻ, đẹp lạc đêm trôi vào cõi Thiên Thai...
 
Truyện ngắn: TÚY TÂM