Những vần thơ thấm máu

07:04, 16/04/2020

Những vần thơ thấm máu 

Những cuốn sổ chép thơ của liệt sĩ Nguyễn Trọng Định.
Những cuốn sổ chép thơ của liệt sĩ Nguyễn Trọng Định.
 
(Viết về nhà báo, nhà thơ, liệt sĩ Nguyễn Trọng Định - phóng viên Báo Nhân Dân, hi sinh tại chiến trường Khu V, năm 1968)
 
Tôi đã đọc những vần thơ của anh, những vần thơ chỉ mới ở dạng phác thảo, trong một niềm xúc động khó tả. Thơ của một thời đạn bom, khói lửa. Thơ như máu rút ra từ trái tim mang nhịp đập nóng bỏng của một người chiến sĩ cầm súng và cầm bút đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Anh là Nguyễn Trọng Định, một trong những nhà thơ - nhà báo - liệt sĩ, phóng viên chiến trường của Báo Nhân Dân...
 
Một ngày cuối năm cách đây mấy năm, những đồng đội và đồng nghiệp cũ, những người bạn cùng thời của Nguyễn Trọng Định đã mang đến giao tặng Trung tâm Thông tin Tư liệu của Báo Nhân Dân bốn cuốn sổ tay. Các cán bộ trung tâm run run đón nhận với thái độ xúc động và trân trọng. Những cuốn sổ tay của nhà báo, nhà thơ, liệt sĩ Nguyễn Trọng Định mà bao năm nay, những người bạn, đồng nghiệp, đồng đội của anh lưu giữ như những báu vật còn lại của người chiến sĩ đã mãi mãi nằm xuống chiến trường Khu 5. Bốn cuốn sổ sờn mép, giấy úa, nhưng lạ kỳ thay, nét mực vẫn rói tươi. Ba cuốn sổ nhỏ ngoài bìa ghi các năm: 1960, 1961, 1967; còn cuốn sổ tay lớn nhất hoàn toàn không ghi ngày tháng, những bài thơ chép tay trong sổ cũng không đề thời gian. Bạn bè của anh nói rằng, đó là một trong những cuốn sổ chép thơ cuối cùng của Nguyễn Trọng Định...
 
* * *
 
Ít nhiều tôi đã biết về anh, và đã đọc đôi bài thơ Nguyễn Trọng Định trong tập “Sắc cầu vồng” mà những bạn bè cũ Lớp Ngữ văn khóa 6 - Đại học Tổng hợp của anh như Lữ Huy Nguyên, Hữu Nhuận, Anh Ngọc, Mã Giang Lân… rút ra từ “chiếc ba lô đẫm máu” để Nhà xuất bản Văn học ấn hành vào năm 1993, nhân kỷ niệm 25 năm ngày Nguyễn Trọng Định hy sinh. Nhưng quả thật, lúc này đây, một mình trong đêm lần giở những trang sổ tay cũ kỹ từ hơn 50 năm trước và đọc những vần thơ tươi nét mực của người liệt sĩ, tôi mới cảm thấy trong tâm hồn trào lên một niềm xúc động khó tả. 
 
Đọc thơ anh, tôi cảm nhận ở Nguyễn Trọng Định một tâm hồn tươi trẻ, lạc quan, bay bổng vô cùng. Thơ anh viết trong những ngày giảng đường, những ngày chưa ra trận là những dòng thơ vui, dạt dào yêu thương. Chứa đựng trong đó là tất cả cảm xúc lý tưởng của một người thanh niên yêu đất nước, yêu quê hương, yêu con người, yêu chế độ đến từng mạch máu.
 
Đó là những dòng thơ khỏe khoắn và tươi vui của một thanh niên khao khát xây dựng cuộc sống mới:
 
Trên quê mới đời ta nay thấy đẹp
Với khói đốt nương quấn quýt rừng xa
Với đàn trâu hợp tác về mỗi tối
Trên sừng dài còn vướng mấy nhành hoa...
 
Hoặc:
 
Trên sàn lán mía vừa mới cắt
Anh thợ xây cắm cúi học bài
Vã mồ hôi với từng con tính
Lật những trang đời thơm phức tương lai...
 
(Đêm trên thành phố Thái Nguyên)
 
Trong tâm hồn phóng khoáng và lãng mạn ấy ẩn chứa một tình yêu thiên nhiên, hoa lá, trăng sao, mây trời đến ngất ngây:
 
Vui biết bao là những đêm nghỉ học
Nằm gối đầu lên sách ngắm trời sao
Đêm tháng Tám trời xanh như mắt ngọc
Trăng biếng lười chưa chịu bước lên cao…
 
(Sao)
 
Rừng ơi! Ta ngây ngất say người
Khi hớp những giọt sương nồng trên lá
Rừng ơi! Ta đã lả tay rồi
Vẫn muốn riết những bóng rừng rộn rã…
 
(Rừng)
 
Anh đã yêu biết bao cuộc sống thanh bình, yêu da diết đến cả một “Sắc cầu vồng”: “Trước những cơn mưa ẩm ướt/ Đột nhiên một áng cầu vồng”. Đất nước không bình yên. Nửa nước còn giặc, hai miền lửa cháy. Nguyễn Trọng Định cũng như bao nhà thơ thời chiến, đã phải viết cả những vần thơ căm hận. Những câu thơ này, chỉ có thể thốt lên bằng tất cả trái tim trong những ngày tháng ấy:
 
Trong cuộc đấu tranh sinh tử hôm nay
Giặc mang nhắm gan ta ở miền Nam mỗi sáng
Đêm miền Bắc, Mỹ phá giấc nồng bao làng, bao bản
Họng súng nào còn có thể 
bình yên…
 
Thơ anh viết trong tâm thế của người chiến sĩ trước giờ xung trận. Những vần thơ về “Em nhỏ miền Nam”: “Em Bội ơi, anh thấy rồi lửa cháy/ Những em gái yêu luôn miệng hát ca/ Thân đau xé vẫn bừng bừng khúc hát/ Em chết trên môi còn đọng lời thơ…”. Từ trong đau đớn và ngút trời căm thù kẻ đã gây nên cuộc chiến tranh tội ác, trái tim giàu thổn thức, yêu thương đã phải đặt tên cho thơ mình là “Bài ca chiến đấu”. Những dòng thơ đã nói lên tất cả, giải thích tất cả cảm xúc của người trai Việt trong những tháng ngày ra trận:
 
Ta đâu phải người không biết ngắm trời xanh
Không biết vót tre đan thành nôi con trẻ
Nhưng phải có những hầm chông tre đuổi Mỹ
Phải có triệu nghìn mắt lửa giữ trời xanh…
 
Trong dòng cảm xúc rực lửa ấy, từ gốc đa Hàng Trống, người trai Hà Nội, chàng cử nhân văn khoa, người phóng viên ngoài tuổi đôi mươi mang ba lô, khoác khẩu súng, cầm cây bút lên đường. Đánh giặc, viết báo và làm thơ. Cùng với những bài phóng sự, những bản tin từ chiến trường nóng bỏng, hồn thơ Nguyễn Trọng Định vẫn dào dạt tuôn trào. Thơ viết trên đường hành quân. Thơ viết sau trận chống càn. Thơ viết trong phút giải lao giữa giờ tăng gia. Thơ ca ngợi những mảnh đất kiên trung, những con người dũng cảm. Và trong cuộc trường chinh không hẹn ngày về ấy, nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân luôn khắc khoải trong tâm hồn người lính. Trên đường hành quân, anh viết bài thơ “Nước vối quê hương” với cảm xúc dịu dàng, ấm áp: “Chúng con đi giữa rừng đêm mưa xối/ Lòng vẫn ngọt ngào vị nước vối quê hương”. Những phút giây tưởng chừng như bình yên, hay là tâm hồn người nghệ sĩ trong anh khao khát bình yên - trong hình ảnh quê hương, người mẹ già, gốc vối già kỷ niệm và người con gái láng giềng:
 
Quê ta đêm nay có nặng hạt mưa giông
Ấm vối đặc chắc vẫn nồng trong gió
Tháng năm rồi vối trong vườn kết nụ
Cô láng giềng còn hái giúp 
mẹ không?...
 
GS-NGND Đinh Văn Đức, một người bạn học Lớp Ngữ văn khóa 6 cùng Nguyễn Trọng Định xúc động: “Mỗi lần nhớ về Định, riêng tôi vẫn hình dung anh qua bài thơ “Nước vối quê hương”. Trên bàn làm việc của tôi trong nhiều năm có tấm gỗ chặn giấy vẽ hình Puskin và câu thơ “Và người đời nhớ mãi tên ta”, đó là vật kỷ niệm của Định về năm học cuối cùng. Sau này ở mọi nơi, kể cả những chuyến đi xa, nhớ về bè bạn bao giờ “Nước vối quê hương” cũng là một giọt nước thấm mãi trong lòng tôi ký ức về một nhà báo - một người chiến sĩ - một người làm thơ - một người bạn trung thực, hồn hậu...”.
 
 * * *
 
Đọc những vần thơ trong sổ tay di cảo của Nguyễn Trọng Định, tôi vô cùng xúc động và muốn được tìm thêm những tư liệu liên quan đến những ngày cuối cùng của anh ở chiến trường Quảng Đà ác liệt. Thật may, tôi được cung cấp bởi thông tin của nhà báo Trần Mai Hạnh, một đồng đội cũ, từng chứng kiến hoàn cảnh hi sinh của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Trọng Định. Anh Hạnh kể về bức ảnh đầu tiên chụp ở chiến trường (tháng 7/1968 tại Duy Xuyên - Quảng Đà). Trong bức ảnh đó có 8 nhà báo thì ít lâu sau đã có tới 4 người là liệt sĩ, 1 người là thương binh nặng. Trần Mai Hạnh viết: “Trong bức ảnh đó có liệt sĩ Nguyễn Trọng Định, phóng viên Báo Nhân Dân, cùng đi B một ngày với tôi. Anh Định hy sinh tại chiến trường Quảng Đà ngày 26/8/1968 vì một mảnh đạn pháo đâm thủng ba lô, xuyên thẳng vào tim. Bức ảnh anh Định và chị Kim Khúc, cũng là phóng viên Báo Nhân Dân, người yêu của anh âu yếm ngả đầu vào nhau chụp trước lúc lên đường, để trong túi áo ngực trái cũng bị thủng một chỗ, vệt máu đỏ loang ở đó. Từ chiến trường ra, tôi đã mang chiếc ba lô đẫm máu, bức ảnh cùng nhiều kỷ vật của anh giao tận tay gia đình và viết tường trình cụ thể về địa điểm và hoàn cảnh hy sinh của anh để Báo Nhân Dân làm thủ tục đề nghị Nhà nước xét công nhận danh hiệu liệt sĩ cho anh. Đến nay đã hơn 50 năm sau ngày hy sinh, phần mộ và hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Trọng Định vẫn chưa tìm được...”.
 
Vâng, phía sau mỗi bài báo, mỗi thước phim, tấm ảnh, mỗi bài thơ và tác phẩm văn học gửi về từ chiến trường ngày ấy là những năm tháng ác liệt, là bao tổn thất, là máu đã đổ. Tôi đọc những dòng thơ từ những cuốn sổ chép tay của nhà báo, nhà thơ, liệt sĩ Nguyễn Trọng Định và cảm nhận rất rõ ràng và sâu sắc về điều đó. Đọc trong niềm tự hào về một cây bút tài hoa từng ra đi từ gốc đa Hàng Trống. Đọc trong một niềm nuối tiếc, giá như anh không ngã xuống ở tuổi 26 đầy mộng mơ, khát khao...
 
UÔNG THÁI BIỂU