Đi tìm giấc mơ kơrla

08:11, 27/11/2021

(LĐ online) - Nơi đó, phía thượng nguồn sông Đồng Nai, dãy Bù Sa Lu Xiên tự ngàn đời đã có, suối Đạ Roòng vẫn hiền hòa tuôn chảy. Không biết từ bao giờ, ở xứ sở quanh năm "mây ấp núi" này, người Mạ đã quần tụ sinh sống...

(LĐ online) - Nơi đó, phía thượng nguồn sông Đồng Nai, dãy Bù Sa Lu Xiên tự ngàn đời đã có, suối Đạ Roòng vẫn hiền hòa tuôn chảy. Không biết từ bao giờ, ở xứ sở quanh năm “mây ấp núi” này, người Mạ đã quần tụ sinh sống. Chiều buông tĩnh lặng, trong nhà dài truyền thống, già Điểu K’Bôi đang tự sự cùng gòng kơrla (đàn ống tre), thanh âm thong dong qua đỉnh núi lớn. 
 
Đồng bào Nam Tây Nguyên chơi đàn ống tre trong ngày hội buôn làng
Đồng bào Nam Tây Nguyên chơi đàn ống tre trong ngày hội buôn làng
 
Sinh ra và lớn lên ở miền đất gian lao mà anh dũng Đồng Nai Thượng, huyện Cát Tiên, Lâm Đồng; qua những mùa hội buôn làng, được đắm chìm trong những nốt trầm bổng nhịp chiêng, tiếng kèn bầu, điệu khèn môi… làm Điểu K’Bôi mê mẩn những nhạc cụ truyền thống của dân tộc mình. Giờ đây, những ngày hội lớn ở buôn làng, ông thường đứng ra thực hiện các nghi thức. “Mình còn nhớ và chơi thuần thục nhiều bài chiêng cổ, rồi chỉnh chiêng, chế tác kèn bầu, đàn t’rưng… đàn ống tre mình cũng biết chế tác và chơi được” - Điểu K’Bôi chia sẻ. 
 
Vừa dứt lời, già K’Bôi trải lòng với tôi bằng những thanh âm tỉ tê, da diết qua nhạc cụ bằng ống tre già. Này điệu tự sự chậm, buồn, tha thiết; điệu ru con đong đưa, nhẹ nhàng; điệu tiễn đưa nỉ non, day dứt… Đó là những câu chuyện được kể bằng âm thanh, những điệu thức không có ghi chép. Đó là mạch nguồn hồn nhiên tự chảy trong huyết quản của những người con trên miền rừng xanh, núi đỏ.
 
Già Điểu K’Bôi gãy đàn ống tre
Già Điểu K’Bôi gãy đàn ống tre
 
Thấy Điểu K’Bôi chơi đàn, nghe và cảm những thanh âm hồn nhiên như núi, tôi chợt nhớ “Giấc mơ chapi” của Trần Tiến, tác phẩm đã đưa tọ (đàn - tiếng Raglai) chapi, tên gọi nhạc cụ làm bằng ống tre của người Raglai lan xa qua tận trời Âu. Biết đâu mai này, gòng kơrla của những tộc người Nam Tây Nguyên cũng vượt qua núi lớn, để nhiều người ước muốn tìm về với đại ngàn huyền thoại. “Gòng kơrla (vài nơi gọi là kala) rất giống với tọ chapi của người Raglai. Cấu tạo đàn khá độc đáo, một ống tre già, lớn; dây đàn được tách ra sáu sợi từ phần vỏ ống tre với khoảng cách đều nhau và được kê kích ở hai đầu để làm dây khảy, sau này nhiều người chế tác bằng bộ dây khác. Thẩm âm gòng kơrla cũng là nghệ thuật, đôi tai phải tinh và đôi tay phải thật nhuần nhuyễn” - già K’Bôi nói. Đồng bào Nam Tây Nguyên thường chơi đàn ống tre trong những cuộc vui gặp gỡ bạn bè, lúc lên rẫy, khi quây quần bên bếp lửa nhà dài, có khi lại một mình tình tự. 
 
Mê mẩn “Giấc mơ chapi” của nhạc sĩ tài hoa họ Trần, tôi đã tìm đến để nghe tiếng lòng của người Raglai. Mặt trời bắt đầu gác núi. Đàn dê trắng không còn nhởn nhơ quanh đồi. Điệu siri man mác, điệu alơu tự sự trên nền nhạc từ đàn chapi thong dong qua núi lớn Chơ Prông ở vùng đất Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận. Thanh âm tỉ tê, thao thiết như níu giữ giấc mơ “ai nghèo cũng có cây đàn chapi”. 
 
Khói lam chiều vương vấn trên dãy Pơto Patí, buôn Do nồng ấm, đầy đặn hơi thở núi rừng. Tôi về đây để tìm “những rừng cây, ngọn núi mang tiếng đàn… chapi”, để lạc vào giấc mơ mang hồn tiếng đàn tre của người Raglai. Những nếp nhà đã bập bùng bếp lửa. Không khó để tìm nhà Chamaléa Âu, nghệ nhân duy nhất ở Ma Nới biết chế tác và biểu diễn tọ chapi, bởi âm thanh xa xăm len vào gió vọng về, lúc trầm tỉ tê, da diết như con thú hoang gọi bầy về nơi ẩn trú; lúc rạo rực như con chim rừng cùng nhau bay về tổ ấm; lúc khoan nhặt như giọt nắng buông lơi cuối ngày… 
 
Khi tôi đến, trên gác bếp của Ama Âu, những ống tre già đang được hong khô đúng lửa. Ông bảo, làm đàn thì nhanh, nhưng tìm được những ống tre ưng ý mới khó. Đàn chapi đơn giản chỉ là ống tre gai già, đường kính khoảng 8 đến 10 cm, phơi khô trong vòng bốn, năm tháng mới đưa ra làm đàn, càng khô thì âm càng hay; dùng cây mác đầu nhọn lẩy cật tre lên thành tám dây, mỗi dây cách nhau khoảng 2 cm (bốn dây kép). Đặt chốt tre nhỏ ở hai đầu dây để dây cao hơn thân đàn, khoét thủng hai đầu mắt tre để tạo âm vang và cuối cùng là công đoạn cân chỉnh âm sao cho tiếng đàn có hồn. Không kể thời gian hong tre, Ama Âu bảo, chỉ mất khoảng một khắc giờ là người Raglai đã có một cây đàn chapi, còn chơi hay dở là ở cái lòng của người chơi, giống người Mạ, K’Ho chơi gòng kơrla; người Ba Na chơi k’long put, hay người Jrai chơi đàn goong vậy. 
 
Cách chế tác đàn chapi cũng tương tự kơrla
Cách chế tác đàn chapi cũng tương tự kơrla
 
Nếu mã la, chiêng hầu như có mặt trong các nghi lễ của người Raglai, đồng bào Tây Nguyên và “ai giàu mới có”; thì tọ chapi, gòng kơrla là nhạc cụ “ai nghèo cũng có”; lúc buồn, lúc vui cũng đều khảy được. Đàn chapi đã được giới thiệu với bạn bè quốc tế khi “Giấc mơ chapi” của Trần Tiến được hát lần đầu tiên trên sân khấu tại Pháp và Hà Lan do chính tác giả trình bày cùng nhóm Du ca Đồng Nội. Sau đó, chàng du ca Tây Nguyên Y Moan đã thổi bùng “giấc mơ” này, thì nhiều người đã biết về đàn chapi.
 
Có thể nói, mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều có một loại nhạc cụ đặc trưng để phục vụ cho các lễ hội dân gian: Người Ê Đê, Ba Na có đàn t’rưng, người Chăm có khèn saranai, trống paranưng… Không kể đến loại thông dụng như chiêng (đồng bào Raglai gọi là mã la), phần đa các dân tộc Việt Nam đều có, thì tọ chapi là “hồn người Raglai” và với đồng bào dân tộc Nam Tây Nguyên, gòng kơrla cũng thế. Theo già Điểu K’Bôi, trước đây, ở các buôn làng Nam Tây Nguyên hầu như nhà nào cũng có đàn ống tre. Chiều về, bên hiên những ngôi nhà dài, người già, người trẻ có thể mượn điệu gòng kơrla tỉ tê, tâm sự. Nhưng nay, chỉ số ít người già ở các buôn làng còn biết làm và chơi được, gòng kơrla vì thế cần có giấc mơ tiếp nối, trao truyền.
 
MAI VĂN BẢO