Gặp tác giả ''Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư'', và câu hỏi không bao giờ khép

07:04, 30/04/2022
Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư
 
Đừng trách gì nhé anh, hãy nghe em kể hết
Những nghĩ suy nông nổi của một thời
Những trống trải không cách gì xua đuổi
Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư
 
Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư
Em giờ vẫn như thuở nào, sợ tay mình lấm đất
Sẽ không biết tự khuyên mình những lời khuyên nghiêm khắc
Không một lần dám sống hy sinh
 
Và giữa dòng người cuộc sống gấp bon chen
Em đâu biết tin ai một điều gì tuyệt đối
Em sẽ đến với tình yêu bằng nửa trái tim yếu đuối
Còn nửa tim kia đành giữ lại… để nghi ngờ
 
Em sẽ không hề nghĩ đến mầm cây khi nhìn những giọt mưa
Có thể rồi sẽ quên cả màu của lúa
Quên bài địa lý quê hương, những miền nào đất đen, đất đỏ
Sẽ nhọc nhằn khi định nghĩa chữ “dòng kênh”
 
Sẽ… rất nhiều, anh hiểu phải không anh
Ngày tháng trước em là con ốc nhỏ
Con ốc đa nghi cuộn mình trong lớp vỏ
Sống vô tình mà ngỡ sống thông minh
 
Anh có lạ lùng khi em nói em ghen
Với quá khứ anh, những tháng ngày đánh Mỹ
Em ghen với mắt nhìn tự tin, với nói cười thoải mái
Ghen với những say mê em chưa có một lần
 
Em ghen với bạn bè anh, ghen với những tâm hồn
Từ dạo ấy tháng Tư giải phóng
Để rồi anh đi, cái vỏ ốc bỗng vỡ tan dễ dàng như bong bóng
Những khát vọng, tin yêu em đã gặp chính mình
 
Em đổi những bé mọn của tâm hồn lấy lắm ngọt êm
Lòng vẫn nghĩ: tháng Tư làm nhân chứng
Ôi nhân chứng bao dung, nhân chứng vô cùng người lớn
Làm thế nào em có thể đền ơn!
 
Tháng Tư ơi xin đẹp mãi tâm hồn.
 
Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân
Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân
Có một người con gái quê Long An, đang là sinh viên, bằng tất cả sự tin yêu và niềm tin trong trắng, chị đã có 2 bài thơ về bộ đội khá hay, đó là bài Con tem quân đội và bài Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư. Chị là nhà thơ Đinh Thị Thu Vân, những câu thơ của chị nói hộ nhiều người: Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư/ Em giờ vẫn như thuở nào, sợ tay mình lấm đất/ Sẽ không biết tự khuyên mình những lời khuyên nghiêm khắc/ Không một lần dám sống hy sinh... Nói về những điều lớn lao ấy bằng thơ hoàn toàn không dễ. Mà lại nói hay, nói xúc động, không lên gân... cái chất thủ thỉ nữ tính giúp chị bộc lộ được những điều khó nói, và qua đó thấy hình ảnh anh bộ đội đáng yêu làm sao: Anh có lạ lùng khi em nói em ghen/ Với quá khứ anh, những tháng ngày đánh Mỹ/ Em ghen với mắt nhìn tự tin, với nói cười thoải mái/ Ghen với những say mê em chưa có một lần/ Em ghen với bạn bè anh, ghen với những tâm hồn... Ơ, thế thì là yêu bộ đội rồi chứ gì? Hãy nhớ lại đi, những năm đầu hòa bình, không dễ gì người ta lại nói ra được những điều ấy. Đấy là gan ruột, là ngưỡng mộ, là niềm tin của Nhân dân vào anh Bộ đội Cụ Hồ được nhà thơ cụ thể hoá một cách nhuần nhuyễn và ý nhị.
 
Khi tôi còn là sinh viên thì Đinh Thị Thu Vân đã là nhà thơ nổi tiếng, chị trở thành thần tượng, niềm ngưỡng mộ của rất đông bạn đọc, những bạn đọc tuyệt vời một thuở. Sau này quen và chơi với chị, mới hay chị cùng lứa với chúng tôi, hơn nhau vài ba tuổi. Tôi quen chị qua Nguyễn Đức Thọ, nhà văn tài hoa mệnh yểu này tuồn tuột lôi tôi từ lầu 4 xuống phòng chị Song Hảo và Đinh Thị Thu Vân ở khách sạn Tây Hồ (Hà Nội) trong một lần dự họp Ủy ban toàn quốc Liên hiệp VHNT Việt Nam để... uống bia. Hắn cứ tưởng tôi và hai nhà thơ này đã quen biết nhau rồi nên chẳng giới thiệu gì mà cứ ngồi tì tì uống trong khi tôi tranh thủ chiêm ngưỡng hai nữ nhà thơ Nam Bộ lần đầu gặp. Song Hảo là tác giả bài thơ Cao cao trên cửa sổ và Khi nào anh đau khổ, hãy tìm đến với em... Mồi rất nhiều và ngon. Toàn đặc sản Nam Bộ, tất nhiên là đồ khô. Vào một lúc thì biết rằng, mồi này Đinh Thị Thu Vân mang từ Long An ra. Cả Vân và Song Hảo đều vô cùng... đàn bà. Cẩn thận, chỉn chu và dịu dàng, thấy người là nhớ đến thơ Ônga bécgôn dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi. Sau này thân nhau, khi gặp nhau chúng tôi nói đủ thứ chuyện, trừ chuyện... thơ. Vân nấu ăn rất ngon và rất chịu khó nấu ăn. Tôi đã vài lần thưởng thức tài nghệ ấy trong những chuyến Nam du tại nhà chị. Trong nhà chị còn một thứ rất vĩ đại nữa là… rượu. Có đến hàng mấy chục thẫu rượu xếp hàng ngăn nắp sạch sẽ ở một góc nhà. Rượu ngâm lấy nhưng rất ngon, và có cảm giác như trái gì, con gì cũng có thể ngâm rượu được, từ rượu ổi, rượu nhàu, rượu trứng cá, rượu chuối cho đến tắc kè, rắn, rết… Ngâm nhiều rượu nhưng không uống được rượu. Tôi có cảm giác những thẫu rượu kia mang đầy tâm trạng chủ nhân, những thẫu rượu cũng biết trăn trở, thở than, cũng biết buồn vui ấm lạnh, cũng trằn trọc những đêm gió chướng nằm nghe nước lên, cũng bồi hồi khi mùa thu phương Nam rực vàng hoa cúc… Hồi đầu, nhà Đinh Thị Thu Vân ở trong một khu tập thể, có cây phượng vĩ lẻ loi đứng ở ngay lối vào. Một nhà văn nói với tôi: Anh cứ căn cây phượng vĩ ấy để tìm nhà Đinh Thị Thu Vân, nhờ thế tôi viết được bài thơ Cây phượng vĩ một mình: Ta về tắm nước Đồng Nai/ Thương cây phượng vĩ cháy ngoài bến sông... Tất nhiên chị không sống một mình, chị ở với hai đứa con, một trai một gái, lớn lộc ngộc rồi, nhưng chị luôn nghĩ chúng còn nhỏ lắm. Đi đâu cũng nhăm nhăm về để... chở con đi học, nấu ăn cho chúng. Hai đứa con vừa là điểm tựa của chị, là niềm vui đồng thời cũng là nỗi lo lắng, là gánh nặng vinh quang của chị. Chị tê tái nuôi con, sẵn sàng xù lông, xù cánh vì con, hy sinh cho con, thấp thỏm với từng bước chân thập thững của con, để giờ chúng lớn, chúng đi hết lại từng đêm ngong ngóng lo cho chúng. Thế mà chị lại là người rất... nhát gan. Có lần tại Hà Nội, tôi thấy chị và nhà thơ Song Hảo từ phố về, mặt cắt không còn giọt máu, lấy tay đè ngực mãi mà không nói nên lời khi tôi hỏi có chuyện gì xảy ra. Té ra chị và chị Song Hảo mượn xe máy của ai đó đi dạo, loanh quanh thế nào đi vào đường ngược chiều. Gặp Cảnh sát giao thông thổi phạt, hai bà sợ đến muốn khóc cũng không được. Trong lúc luống cuống móc tiền, vô tình rơi ra cái thẻ nhà văn và cả thẻ nhà báo. Anh công an, bây giờ đến lượt anh luống cuống: Sao các chị không nói trước. Bây giờ em ghi biên lai mất rồi. Có thật chị là Song Hảo không? Chị Hảo “bao giờ anh đau khổ” đây hả. Giời ơi, giá mà chị nói ngay. Đây là chị Đinh Thị Thu Vân nữa hả, chị Vân Con tem quân đội, Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư chứ gì? Em thuộc các chị hết, ngày xưa em thi vào tổng hợp văn mà trượt đấy. Thôi thế này nhé, bây giờ các chị cứ phải nộp phạt thôi, hết ca trực em mời các chị đi chơi, em xin làm hướng dẫn viên cho các chị và xin phép được mời các chị thưởng thức bún ốc đặc sản Hà Nội... Tất nhiên các chị dịu dàng từ chối, và mãi vẫn chưa hết... run.
 
Thời ấy, thơ chị vô cùng thật thà, chính sự thật thà ấy đã chinh phục trái tim người đọc: Đừng trách gì nhé anh, hãy nghe em kể hết/ Những nghĩ suy nông nổi của một thời/ Những trống trải không dễ gì xua đuổi/ Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư./ Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư/ Em giờ vẫn như thuở nào, sợ tay mình lấm đất/ Sẽ không biết tự khuyên mình, những lời khuyên nghiêm khắc/ Không một lần dám sống hy sinh... Bài thơ là sự giãi bày tâm sự, giãi bày nỗi lòng, thủ thỉ đầy nữ tính của một người con gái trước những người đàn ông vô hình nhưng lại rất cụ thể, người đàn ông đã có một quá khứ hào hùng để làm nên ngày Ba mươi tháng Tư. Chị nói hộ rất nhiều người sự trăn trở, đổi thay trong suy nghĩ, lối sống với cái mốc Ba mươi tháng Tư: Em đổi những bé mọn của tâm hồn lấy lắm ngọt êm/ Lòng vẫn nghĩ: Tháng Tư làm nhân chứng/ Ôi nhân chứng bao dung, nhân chứng vô cùng người lớn/ Làm thế nào em có thể đền ơn!/ Tháng Tư ơi xinh đẹp mãi tâm hồn. Bài thơ này chị làm đúng vào ngày Ba mươi tháng Tư năm 81. Hãy nhớ lại những ngày này. Đây là những năm đất nước vô cùng gian khổ. Cơm độn bo bo và sắn, thậm chí phải nói ngược lại mới đúng: sắn, bo bo... độn vài hạt cơm. Những cơn đói triền miên khiến cả đất nước chỉ nhăm nhăm lo cho cái ăn. Tất cả mọi chế độ tối thiểu bán theo tiêu chuẩn tem phiếu. Rất nhiều người vượt biên, nhiều người ngả nghiêng, nhiều niềm tin đổ vỡ... Bài thơ lan truyền trong giới trẻ như một sự định hướng niềm tin và được giới trẻ đón nhận như chính tâm sự của mình. Thế mới biết chức năng của thơ thật cao cả. Đinh Thị Thu Vân nhắc hộ cả lối sống bàng quan, vô tình của cả một thời trước đó: Em sẽ không hề nghĩ đến mầm cây khi nhìn những giọt mưa/ Có thể rồi sẽ quên cả màu của lúa/ Quên bài địa lý quê hương, những miền nào đất đen đất đỏ/ Sẽ nhọc nhằn khi định nghĩa chữ “dòng kênh”/ Sẽ... rất nhiều, anh hiểu phải không anh/ Ngày tháng trước, em là con ốc nhỏ/ Con ốc đa nghi cuộn mình trong lớp vỏ/ Sống vô tình mà ngỡ sống thông minh. Bây giờ, tôi tin, có tài năng đến mấy, cũng không bao giờ có thể làm lại được bài thơ như bài Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư này. Ngay Đinh Thị Thu Vân, sau này thơ chị cũng đã khác. Chị đằm thắm điêu luyện hơn, tinh tế hơn, dẫu đề tài vẫn thế. Rõ ràng đã có một phong cách khác, một cách thể hiện khác… Tinh tế hơn, trữ tình hơn, tính ẩn dụ nhiều hơn… nhưng vẫn là một mạch cảm xúc về người lính ấy, những người lính đã làm nên ngày Ba mươi tháng Tư lịch sử như bài thơ Áo người yêu chẳng hạn.
 
Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân bây giờ là Phó Chủ tịch Hội VHNT kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Long An. Ngoài tài năng thơ, chị còn có khả năng làm kinh tế rất giỏi mà ngôi nhà 4 tầng bề thế ở con đường lớn nhất thị xã Tân An, kề sân vận động là minh chứng. Ngôi nhà rộng đến mức tôi nghĩ không biết trong một tháng có mấy lần chị đi hết mấy tầng nhà mình. Đến nhà chị thay vì bấm chuông, ta phải gọi điện thoại, mà phải kiên nhẫn gọi mấy lần, gọi di động không được thì gọi máy bàn, bởi không phải lúc nào một người phụ nữ cũng khư khư cầm theo điện thoại khi đang ở trong nhà mình. Chị như bận bịu suốt ngày trong ngôi nhà ấy, lặng lẽ và ưu tư, lặng lẽ sống và viết. Và tôi cũng vừa có trong tay một tập thơ mới của chị, tập Một ngày ta ngoái lại, chị viết như rứt ruột, lặn đến tận cùng nỗi đau, nỗi buồn và từ đó lại lấp lánh sự ấm cúng, nỗi nhân hậu và cả sự yêu đời: 
 
Em giấu một tình yêu trong sắc cỏ
giấu thanh xuân trong lặng lẽ hoa vàng 
em chẳng ước gì thêm em biết rõ 
có một người giấc ngủ chẳng bình an
 
Đọc hết tập thơ mỏng, tôi như người đang ngơ ngẩn ở một phương trời khác, trong veo, tinh khiết, bảng lảng... Có một điều gì đó nhẹ và mỏng, khẽ vỡ ra. Một chút khói sương, một chút an phận, và trên hết là một tình yêu vĩnh cửu với tất cả những từng trải, chiêm nghiệm, đớn đau và xa xót... Một chiếc lá giao mùa đang rụng đấy/ Gió vô tâm đua xót nỗi hao gầy/ Hồn tôi úa võ vàng đêm giá rét/ Thôi cũng đành như lá phút rời cây...
 
Nó khác xa cái thuở Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư nhưng cũng vẫn một cái nhìn ấy, một nỗi lòng ấy, một tình yêu ấy, Đinh Thị Thu Vân neo vào lòng bạn đọc bằng những bài thơ đầy dư ba.
 
Mãi mãi người ta không thể quên ngày Ba mươi tháng Tư, cũng như không quên bài thơ Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư. Cả câu hỏi ấy nữa, không bao giờ khép?...
 
VĂN CÔNG HÙNG