Kỳ 2: Những vấn đề đặt ra về đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam và những gợi mở cho hôm nay
Việt Nam là một đất nước đa dân tộc, nhiều tôn giáo, thế nhưng ở Việt Nam không có xung đột sắc tộc và tôn giáo. Điều đó là nhờ ở chiều sâu văn hóa Việt Nam, song đối với giai đoạn gần đây, đó còn là sự đóng góp và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết dân tộc đã đưa dân tộc Việt Nam vượt qua những khó khăn, thách thức, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước trong hòa bình.
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc. Ảnh: Tư liệu |
Sau hơn gần 40 năm đổi mới đất nước, đất nước Việt Nam đã tiến những bước tiến rất dài trên tất cả các mặt của đời sống xã hội từ tốc độc tăng trưởng kinh tế (GDP), thu nhập bình quân đầu người, các mặt văn hóa - xã hội, tỷ lệ hộ nghèo, tuổi thọ trung bình tuổi… Tất cả những thành tựu vĩ đại ấy được tạo nên bởi sức sáng tạo vĩ đại của Nhân dân, được kết thành bởi tinh thần đoàn kết, sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Để tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, chỉ tính từ đổi mới đất nước đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành rất nhiều các chỉ thị, nghị quyết về tập hợp và chăm lo lợi ích cho các giai tầng. Hầu như tất cả giai tầng trong xã hội đều được Đảng quan tâm và ban hành các chỉ thị, nghị quyết để chăm lo lợi ích và vận động các giai tầng. Các nghị quyết, chỉ thị có thể kể tới như: Nghị quyết 23-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết 20-NQ/TW về xây dựng giai cấp công nhân; Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc… Tất cả những chính sách ấy đã thực sự đi vào cuộc sống, góp phần xây đắp khối đại đoàn kết trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, tạo nên sự đồng thuận xã hội vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của Nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong thực tế hiện nay, đã xuất hiện ngày càng nhiều những biểu hiện, những vấn đề bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên; là tình trạng tham nhũng, lãng phí; là phân hóa giàu nghèo ngày càng xa; là tình trạng vi phạm dân chủ, nhất là ở cơ sở,... gây bất bình trong nhân dân; ảnh hưởng nghiêm trọng và trực tiếp đến uy tín của Đảng, của Nhà nước và mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân cũng như việc củng cố, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền và trong xã hội ngày càng lớn. Tất cả những bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến đại đoàn kết dân tộc. Ngoài ra, các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước vẫn không ngừng lợi dụng các thiếu sót nêu trên, lợi dụng những vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo can thiệp vào tình hình Việt Nam với mưu đồ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội cũng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Còn nhớ ngay khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trong Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... Tục ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời. Lại có câu: “Có thực mới vực được đạo”, nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả. Vì vậy chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của Nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Sở dĩ người dân tin và theo Đảng, bởi Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực thi những chủ trương, chính sách đáp ứng lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Khi người dân có niềm tin và yêu mến, chắc chắn Nhân dân sẽ kết thành một khối vững chắc đoàn kết xung quanh Đảng và Nhà nước. Thế nhưng, vấn đề là làm sao để dân tin, dân yêu. Sinh thời, trong bài viết “Sao cho được lòng dân” đăng trên Báo Cứu quốc số 65 ngày 12/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Đó là một chân lý hiển nhiên nhưng không phải mấy ai đã thực hiện được tốt. Đặc biệt, Hồ Chí Minh cho rằng thước đo của lòng dân với Đảng là ở những việc hết sức thiết thực chứ không phải lý luận cao xa. Trong Bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”. Đến khi viết Di chúc, Người cũng đau đáu dặn lại rằng: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”.
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, trước hết Đảng và Nhà nước phải ban hành và thực thi các chính sách đảm bảo lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Chăm lo phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, hài hòa giữa các vùng, miền trong phát triển, nhất là quan tâm đầu tư các công trình giao thông quan trọng để kết nối các vùng, miền trong cả nước, trong đó phải đặc biệt chú ý đến các vùng còn khó khăn như Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng, đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”. Tiếp nối tư tưởng này, Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc nhấn mạnh: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới”.
Ðại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”. Cả hệ thống chính trị phải luôn quán triệt tinh thần này để củng cố, tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung là đặt lợi ích quốc gia, dân tộc cao hơn hết thảy.
Cả cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm hết sức vì đại đoàn kết của các dân tộc, các tôn giáo. Trong bối cảnh hiện nay, khi các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước cần quan tâm cụ thể hơn đến vấn đề này. Đặc biệt, Nhà nước cần nhanh chóng thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật và nhanh chóng đưa các chính sách này vào trong cuộc sống. Cần quán triệt nguyên tắc nhất quán trong toàn hệ thống chính trị là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của công dân, tạo điều kiện cho các tôn giáo hành đạo và truyền đạo theo pháp luật. Nghiêm cấm các hành vi lợi dụng tôn giáo để chống phá, nhưng cũng nghiêm cấm các hành vi miệt thị tôn giáo.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin