(LĐ online) - 95 năm qua, sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tạo nên những mốc son lịch sử cực kỳ quan trọng. Những thành tựu qua gần 40 năm đổi mới chính là nền tảng và điều kiện quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược, bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đã chứng minh, bất cứ việc gì muốn thành công đều phải có lý luận hướng dẫn, bởi lý luận khoa học bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn và nhằm phục vụ cho hoạt động thực tiễn, lý luận đóng vai trò mở đường và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. V.I.Lênin chỉ rõ: Đảng chỉ làm được vai trò lãnh đạo xã hội khi được trang bị lý luận tiên phong, không có lý luận tiên phong thì không còn là một đảng trí tuệ, không có khả năng “dẫn đường” cho bất kỳ ai, và do đó, Đảng không còn lý do để tồn tại. Đối với Đảng Cộng sản, để bảo đảm cho Đảng không ngừng nâng cao tính tiên phong và năng lực lãnh đạo chính trị đối với xã hội thì một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là Đảng phải được trang bị lý luận tiên phong, đồng thời phải tiến hành tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Chỉ có tiến hành tốt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, không chậm trễ, mắc sai phạm trong công tác lý luận, Đảng mới tránh được nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, mới giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Những quyết sách của Đảng đưa ra mới đúng đắn, giữ vững được niềm tin của quần chúng đối với Đảng, hành động trong Đảng và ngoài xã hội mới thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.95). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong những thập niên gần đây cho thấy nếu không xuất phát từ thực tiễn, không tổng kết thực tiễn thì chắc chắn không có lý luận đổi mới, không thể có đường lối đổi mới đúng đắn. Lẽ dĩ nhiên không có sự chỉ đạo của lý luận đổi mới đúng đắn thì không thể có thực tiễn đổi mới thành công.
Trên cơ sở kế thừa những tư duy khoa học đã tích lũy được qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta cần cởi mở, chăm chú, mạnh dạn tiếp thu những tư duy mới, những xu hướng phát triển mới của nhân loại với phương châm tiến kịp, tiến cùng thời đại. Chúng ta kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng trên tinh thần không ngừng sáng tạo; không chủ quan, duy ý chí, nhưng kiên quyết không để chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ kìm trói tư duy, nhận thức của chúng ta. “Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống” (Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 37 - 38). Đây thực sự là một cuộc cách mạng, chúng ta nhất định sẽ tạo ra bước phát triển chưa từng có cho dân tộc ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đặt ra yêu cầu hàng đầu là nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng thật sự là đạo đức, văn minh, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc, của thời đại. Từ khi có Đảng đến nay, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh và khẳng định chân lý rất hùng hồn đó là sự lãnh đạo sáng suốt đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để đưa đất nước vươn mình trong kỷ nguyên tới đây thì Đảng phải mạnh, đặc biệt là về công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã trải qua 7 kỳ đại hội, mỗi đại hội đều thêm một dấu ấn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận.
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 là cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng ta. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ việc tổng kết thực tiễn, Đại hội đã đưa ra được những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thừa nhận sự tồn tại của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh và chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp…
Đại hội VII tháng 6/1991 tiếp tục tổng kết thực tiễn, tổng kết quá trình thực hiện đường lối đổi mới, trên cơ sở đó đề ra “Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000”. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (tháng 1/1994) đã tiến hành tổng kết thực tiễn, và đề ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra những thuận lợi cơ bản tạo thời cơ trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới và bốn nguy cơ lớn đối với cách mạng nước ta đó là: tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, quan liêu; âm mưu hành động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991), trong đó vạch ra 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội và 7 phương hướng cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VIII của Đảng (1996) có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước sang thời kỳ mới - Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn; nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã cơ bản hoàn thành chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội IX của Đảng tháng 4/2001, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của đất nước sau 15 năm đổi mới đã bổ sung, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hoàn thiện thêm một bước những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu cách mạng nước ta được xác định là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Con đường đi lên của nước ta là: phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, bảo đảm công bằng xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đi đôi với giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị thực sự dân chủ, kỷ cương, năng động, trong sạch. Đại hội một lần nữa khẳng định Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu và thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội còn xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”, coi tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết chính trị - cách mạng và khẳng định việc “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”.
Đại hội X của Đảng tháng 4/2006, trên cơ sở tổng kết thực tiễn của đất nước sau 20 năm đổi mới Đảng đã bổ sung, và đề ra nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận trong thời gian tới là: “Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về Đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân… Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.284).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã xác định rõ hơn những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, vạch ra các phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội XII (2016), Đảng ta đã khẳng định: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp to lớn của Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.65).
Đại hội XIII của Đảng đánh giá công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng sau 35 năm đổi mới, hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Các cơ quan lý luận của Đảng, Nhà nước được tổ chức, sắp xếp lại, hoạt động hiệu quả hơn; cơ chế hoạt động, quản lý công tác nghiên cứu lý luận từng bước đổi mới. Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh hơn” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.169-170). Trên cơ sở đó, Đảng đề ra nhiệm vụ “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.181-182).
Chặng đường 95 năm dân tộc Việt Nam có Đảng là những năm tháng hào hùng, quật khởi, tự hào với những thắng lợi được khơi dậy bởi chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Chúng ta càng thấy rõ hơn vai trò dẫn đường và tầm quan trọng hàng đầu của lý luận chân chính; mà thiếu nó, chúng ta không có một nền móng vững chãi, công cuộc đổi mới khó có những bứt phá mạnh mẽ, thành công, rất dễ sai lầm và vấp váp. Đất nước ta từ thân phận thuộc địa trở thành quốc gia độc lập có chủ quyền; từ cục diện chia cắt trở thành một quốc gia thống nhất; từ tình trạng bần cùng lạc hậu vươn lên thoát nghèo, trở thành nền kinh tế năng động trong khu vực và trên thế giới; từ “vong quốc nô”, Nhân dân ta đã trở thành chủ nhân của xã hội mới, làm chủ vận mệnh của mình; từ độc lập hướng tới cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Việt Nam đã vững vàng tiên phong trong cuộc đấu tranh chống thực dân, đế quốc; trong phong trào giải phóng dân tộc; trong cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và tiến bộ xã hội trên thế giới. Với bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng được tôi luyện qua các chặng đường lịch sử, Việt Nam chủ động bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng xuất hiện không ít khó khăn, thách thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết chặt chẽ ý Đảng với lòng dân, phát huy tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng làm động lực, nhất định Việt Nam sẽ vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đóng góp nhiều hơn nữa vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới, đúng như di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đó là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Để tiếp tục gánh vác trọng trách đó của lịch sử, Đảng phải không ngừng lớn mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu và sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Đảng phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn, phát huy dân chủ trong nội bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, trong sạch, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Đảng phải không ngừng hoàn thiện lý luận, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tạo nền tảng vững chắc để lãnh đạo đất nước phát triển nhanh và bền vững. Việc hoàn thiện nền tảng lý luận là yêu cầu cấp thiết để Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước trong bối cảnh thế giới hôm nay đang diễn ra những biến chuyển sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, thực tiễn luôn đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi Đảng phải không ngừng tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận.
Công tác tổng kết thực tiễn cần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá chính xác kết quả đạt được, thẳng thắn, khách quan chỉ ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân; nhận diện rõ những điểm nghẽn, nút thắt đang kìm hãm sự phát triển của đất nước, từ đó đề xuất các giải pháp đột phá, tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình phát triển trong thời gian tới. Công tác nghiên cứu cũng cần chỉ rõ hơn đâu là cơ hội lớn cần tận dụng, đâu là thách thức lớn cần vượt qua, những yếu tố mới của thực tiễn cần bổ sung là gì. Sự thẳng thắn, khách quan, khoa học, trung thực, kiên định và thận trọng là cần thiết để tránh sai lầm, duy ý chí.
Nhìn lại 95 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng, chúng ta có quyền tự hào và hoàn toàn tin tưởng vào tương lai rạng rỡ của Đảng và của dân tộc. Đảng soi đường, mở lối, dẫn dắt dân tộc ta đi tới bến bờ hạnh phúc, vinh quang. Hướng về Đảng, vững tin theo Đảng, mọi người dân Việt Nam tự hào phát huy truyền thống đoàn kết, anh dũng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước bứt phá, tiến lên. Mỗi đảng viên chính là biểu tượng của niềm tin, trí tuệ và ý chí đoàn kết của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ tiếp tục hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình. Vững tin vào sức mạnh của Đảng và sự đoàn kết của toàn dân tộc, chúng ta càng thêm tự hào và khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta sẽ đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, xây dựng một tương lai huy hoàng, rạng rỡ cho dân tộc Việt Nam.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin