Quân đội nhân dân Việt Nam - 70 năm xây dựng, phát triển, chiến đấu và chiến thắng (tiếp theo)

09:12, 19/12/2014

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta tạm thời chia làm hai miền; miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

[links()] QĐND VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
 
1. QĐND Việt Nam tiến lên chính quy, hiện đại; xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa; giữ gìn, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam (1954-1960)
 
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta tạm thời chia làm hai miền; miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
 
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, tháng 3 năm 1957, Hội nghị lần thứ 12 BCH Trung ương Đảng (khóa II) chỉ rõ phương hướng xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong thời kỳ mới. Quân đội ta đã bước vào thực hiện kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất (1955-1960) xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại. Quân đội được xây dựng, tổ chức thành các quân khu, các sư đoàn tương đối hiện đại; các binh chủng Pháo binh, Phòng không đều phát triển; các đơn vị Hóa học, Thiết giáp, Ra đa được thành lập; hệ thống nhà trường chính quy được tổ chức; công tác huấn luyện với nội dung và phương pháp chính quy, nhanh chóng nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của bộ đội. Công tác giáo dục chính trị được coi trọng; Luật Sĩ quan, Luật Nghĩa vụ quân sự được Quốc hội (khóa I) thông qua… Đến năm 1960, quân đội ta đã cơ bản trở thành quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các quân chủng: Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.
 
Đồng thời với việc sắp xếp lại tổ chức, biên chế, tăng cường sức mạnh chiến đấu, QĐND Việt Nam đã tích cực phối hợp với các lực lượng khác thực hiện tốt nhiệm vụ quân quản, nhanh chóng thiết lập trật tự, trị an; vận động quần chúng, chống cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam; tiễu phỉ, trừ gian ở vùng rừng núi, xây dựng vùng biên giới hòa bình; tích cực tham gia lao động sản xuất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, góp phần tạo ra tiền đề vật chất, kỹ thuật cho xây dựng CNXH ở miền Bắc. 
 
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên chính phủ tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền Nam. Trước tình hình đó, 1/1959, Hội nghị lần thứ 15 BCH Trung ương Đảng (khóa II) mở rộng, nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ con đường cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Chấp hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xây dựng quân đội, xúc tiến việc chuẩn bị cho bộ đội vào Nam chiến đấu; thành lập Đoàn 559 với nhiệm vụ mở đường Trường Sơn bảo đảm vận chuyển lương thực, súng đạn và lực lượng từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu; thành lập Đoàn 759 với nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam theo đường biển. 
 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 đã mở đường cho cách mạng miền Nam đi đến thắng lợi. Nghị quyết phổ biến đến đâu, phong trào cách mạng tiến công của nhân dân miền Nam dấy lên đến đấy. Mở đầu là phong trào “đồng khởi” ở tỉnh Bến Tre (1/1960); sau đó nhanh chóng lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên... Từ phong trào “Đồng khởi”, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công mạnh mẽ, hình thành một cao trào cách mạng vũ trang của quần chúng, các lực lượng vũ trang nhân dân ta ở miền Nam phát triển nhanh chóng. Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Tiếp đó, ngày 15/2/1961, Quân giải phóng miền Nam được thành lâp, bộ phận của QĐND Việt Nam trực tiếp chiến đấu ở miền Nam.  
   
2. Đẩy mạnh xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, cùng toàn dân đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ (1961-1965)
 
Từ 1961 đến 1965, ở miền Bắc, quân đội ta đã khẩn trương thực hiện kế hoạch xây dựng quân sự 5 năm lần thứ hai (1961- 1965) với nhiệm vụ chủ yếu: kiện toàn tổ chức, biên chế, đảm bảo quân số thường trực phù hợp (173.500 người); tích cực xây dựng lực lượng hậu bị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật; xây dựng các binh đoàn chủ lực cơ động và các binh chủng kỹ thuật; đẩy mạnh huấn luyện chiến đấu theo phương hướng tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng. Công tác xây dựng Đảng, công tác chính trị được coi trọng. Hệ thống nhà trường quân đội được củng cố và mở rộng; nhiều đơn vị chiến đấu, vũ khí, trang bị và các nhu cầu vật chất khác được đưa vào chiến trường miền Nam…
 
Qua 10 năm xây dựng (1954-1964), quân đội ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về xây dựng chính quy, hiện đại; về giải quyết các mối quan hệ trong xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, nâng cao sức mạnh chiến đấu... đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn, khẩn trương và phức tạp cho những bước tiếp theo.
 
Từ năm 1961, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược quân sự toàn cầu, từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt” và miền Nam Việt Nam được dùng làm nơi thử nghiệm, với tên gọi là “chiến tranh đặc biệt”; mục tiêu, biện pháp cơ bản là tìm diệt bộ đội chủ lực và cơ sở cách mạng, “bình định” để nắm dân, phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong tỏa biên giới, vùng biển để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc. 
 
Thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, quân đội Sài Gòn đã tổ chức lại lực lượng, liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến lược”. Quân và dân ta đã đánh 15.525 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 28.966 tên, vùng giải phóng được giữ vững và mở rộng… đã làm cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản.
 
Nhằm cứu nguy cho thất bại ở miền Nam, Mỹ dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ’’ (8/1964), mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân lần thứ nhất. Ngày 5/8/1964, chúng mở cuộc hành quân “Mũi tên xuyên”, sử dụng 64 lần chiếc máy bay đánh phá ồ ạt nhiều nơi trên miền Bắc. Với tinh thần cảnh giác cao, được chuẩn bị tốt về mọi mặt, các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ của ta đã mưu trí, dũng cảm chiến đấu, bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương một chiếc. Ngày 5/8/64, đã trở thành Ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam.
 
Tháng 10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở đợt hoạt động Đông - Xuân 1964-1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Sau chiến thắng Bình Giã (1/1965), Ba Gia (5/1965), Đồng Xoài (7/1965) của ta, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ hoàn toàn bị phá sản, cuộc kháng chiến của quân và dân ta bước sang một giai đoạn mới.
 
3. QĐND Việt Nam cùng toàn dân đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965-1968)
 
Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam đã tăng vọt lên 184.000 (12/1965) và 20.000 quân đồng minh (Nam Triều Tiên, Ô-xtrây-lia, Niu Di-lân, Phi-líp-pin, Thái Lan), cùng một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh. Mục tiêu chiến lược này của Mỹ là để “tìm và diệt” chủ lực Quân giải phóng và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam, “bình định” miền Nam; đồng thời, Mỹ cũng mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc... buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào bàn đàm phán theo những điều kiện áp đặt của Mỹ.
 
Trước tình hình đó, ngày 24/4/1965, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam tăng cường xây dựng lực lượng, thành lập 5 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo binh và một số binh chủng mới: Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Công binh, Binh chủng Đặc công (3/1967), Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc (1/1968); đẩy mạnh tác chiến của bộ đội chủ lực trên nhiều hướng, kết hợp tiến công quân sự với khởi nghĩa của quần chúng, chuẩn bị đối phó và quyết thắng địch khi chúng mở rộng “chiến tranh cục bộ”. 
 
Vừa xây dựng, vừa chiến đấu và phát triển lực lượng, bộ đội ta trên các chiến trường miền Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - quân đội Sài Gòn, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà diệt”, “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”. Điển hình là các trận đánh phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành (5/1965), Vạn Tường (8/1965) và các chiến dịch Plây Me (10/1965), Bàu Bàng - Dầu Tiếng (11/1965). Tiếp đó, trong mùa khô 1965-1966, quân và dân ta ở miền Nam đã đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn tên địch, phá hủy nhiều máy bay, xe tăng, xe bọc thép.
 
Để cứu vãn tình thế, trong mùa khô 1966-1967, Mỹ tiếp tục tăng quân, mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai bằng ba cuộc hành quân quy mô lớn Át-tơn-bo-rơ, Xi-đa Phôn và Gian-xơn Xi-ti, tập trung trên hướng miền Đông Nam Bộ. Lực lượng vũ trang tại chỗ của ta phối hợp cùng các đơn vị chủ lực Quân giải phóng mở các cuộc tiến công, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc quân Mỹ phải chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai. Kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của địch bị đánh bại, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phát triển lên một bước mới.
 
Giữa lúc cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14 BCH Trung ương Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968), nhằm tạo bước ngoặt lớn, chuyển chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, cùng với việc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, rút dần quân Mỹ về nước; tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri.
 
4. QĐND Việt Nam cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ (1969-1972)
 
“Chiến tranh cục bộ” bị phá sản, từ năm 1969, Ních-Xơn thi hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đồng thời đẩy mạnh chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở Lào và đến 1970 mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia.
 
Để làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, trên miền Bắc đã diễn ra các phong trào “Ba sẵn sàng” của thanh niên; “Ba đảm đang” của phụ nữ; “Tay búa tay súng” của công nhân; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tay cày tay súng”, “Xe chưa qua nhà không tiếc” của nhân dân và đặc biệt là phong trào “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”..., thể hiện ý chí quyết tâm chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến đánh thắng quân thù.
 
Từ 1969-1972, quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia anh em, giành được những thắng lợi to lớn trên chiến trường ba nước Đông Dương, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9 - Nam Lào; chiến dịch Đông Bắc Cam-pu-chia (2/1971), đánh bại các cuộc hành quân lớn của địch, làm thất bại âm mưu của Mỹ dùng quân đội Sài Gòn làm lực lượng nòng cốt trên chiến trường ba nước Đông Dương, dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cục diện chiến tranh. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng. 
 
Tiếp tục trong năm 1972, quân ta đã mở các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam bằng các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng ở Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ; các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu Long..., tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân đội Sài Gòn, mở rộng vùng giải phóng, làm thay đổi cục diện trên toàn chiến trường miền Nam.
 
Để cứu vãn nguy cơ đổ vỡ chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Ních-Xơn buộc phải huy động trở lại lực lượng quân sự Mỹ vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam; tăng số máy bay chiến lược, chiến thuật lên gấp hai, số tàu chiến lên gấp ba, sử dụng không quân và hải quân Mỹ làm lực lượng chiến đấu trực tiếp, cùng quân đội Sài Gòn phản kích trên chiến trường miền Nam; đồng thời mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai (chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 1) với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh mưu trí, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 654 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 125 tàu chiến.
 
Trước thất bại nặng nề, đêm 18 tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “chiến dịch Lai-nơ-bếch-cơ 2” bằng máy bay chiến lược B-52 và máy bay chiến thuật hiện đại nhất (F-111) ồ ạt đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và một số khu vực khác trên miền Bắc. Một lần nữa quân và dân miền Bắc anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược của địch; bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 F-111, diệt và bắt sống nhiều phi công; buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại đàm phán ở Pa-ri. Dư luận thế giới gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”.
 
Thắng lợi to lớn của quân và dân ta đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri về Việt Nam ngày 27 tháng 01 năm 1972 cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam.
 
Trải qua gần 30 năm xây dựng và chiến đấu, quân đội ta đã không ngừng trưởng thành vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích liên tục phát triển; thành lập các quân đoàn: Quân đoàn 1 (10/1973), Quân đoàn 2 (5/1974), Quân đoàn 4 (7/1974), Đoàn 232 (tương đương quân đoàn, 2/1975), Quân đoàn 3 (3/1975); đánh dấu bước phát triển mới của QĐND Việt Nam cả về quy mô tổ chức và trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại, có khả năng mở các chiến dịch tiến công bằng lực lượng binh chủng hợp thành quy mô lớn trên các hướng chiến lược, chiến dịch và đánh tiêu diệt địch với lực lượng lớn để sớm kết thúc chiến tranh.
 
5. QĐND Việt Nam cùng toàn dân tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1973-1975)
 
Hiệp định Pa-ri được ký kết nhưng đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, tiếp tục viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Dựa vào viện trợ Mỹ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sức củng cố ngụy quân, ngụy quyền, liên tiếp mở các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
 
Trong hai năm 1973-1974, quân và dân ta liên tiếp giành được thắng lợi quan trọng, làm cho cục diện chiến trường tiếp tục thay đổi có lợi cho ta. Tháng 10 năm 1974 và đầu năm 1975, Hội nghị Bộ Chính trị đã kịp thời đánh giá đúng cục diện tình hình, chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
 
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 4 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng Buôn Ma Thuột (10-11/3/1975). Đây là trận đánh then chốt có tính quyết định, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở chiến trường Tây Nguyên, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên.
 
Sau chiến dịch Tây Nguyên, quân ta mở chiến dịch giải phóng các tỉnh, thành phố: thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên (25/3); Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà (29/3); Bình Định, Phú Yên (01/4), Khánh Hòa (3/4)... Ngày 14 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị đồng ý Chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4 quân ta bắt đầu tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Ngày 29/4, tiến công tiêu diệt và làm tan rã các sư đoàn chủ lực của quân đội Sài Gòn; Đại sứ Mỹ và các nhân viên quân sự, binh lính cuối cùng của Mỹ lên máy bay trực thăng rút khỏi Sài Gòn (sáng 30/4). 5 giờ sáng ngày 30/4, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trên dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Trong 2 ngày (30 tháng 4 và 1 tháng 5), các tỉnh đồng bằng Nam Bộ, vùng biển và các đảo ở Tây Nam lần lượt được giải phóng. Hơn một triệu quân và cả bộ máy chính quyền của địch bị đập tan, chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng trong hơn 20 năm với 5 đời tổng thống đã hoàn toàn sụp đổ. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng.
 
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của QĐND Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
 
Trải qua hơn hai mươi năm chiến đấu, quân và dân ta đã đánh thắng một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày, ác liệt và dã man nhất (kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai) của một đế quốc hùng mạnh nhất. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.       
 
(CÒN NỮA)
 
BAN BIÊN TẬP