Quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng

08:07, 21/07/2016

(LĐ online) - Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những quyết sách mới, đúng đắn, phù hợp để tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, đáp ứng kỳ vọng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

(LĐ online) - Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những quyết sách mới, đúng đắn, phù hợp để tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững, đáp ứng kỳ vọng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Để góp phần vào việc học tập, quán triệt sâu sắc, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, ý chí và hành động trong tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội, Báo Lâm Đồng mở chuyên mục “Tìm hiểu nội dung mới nổi bật trong văn kiện Đại hội XII của Đảng”. 
 
PHẦN THỨ NHẤT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thông qua Nghị quyết và các văn kiện quan trọng, có ý nghĩa về chính trị, tư tưởng và hành động đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Việc học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII (NQĐH XII) là một nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm 2016, mà tập trung nhất là những nội dung cơ bản, mới, các giải pháp thực hiện phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực.
 
Nội dung Văn kiện Đại hội XII được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, có sự kế thừa, bổ sung, phát triển Văn kiện Đại hội XI, các nghị quyết Hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ và đường lối, quan điểm của Đảng trong các nhiệm kỳ trước đây. Trong đó, những quan điểm cơ bản, tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi, những vấn đề mới, đều được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
 
Về đánh giá tình hình, điểm mới của NQĐH XII so với Đại hội XI là nhận định: “tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt”; “hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn”. Đó là cơ sở hết sức quan trọng làm căn cứ để Đảng ta đi đến những quyết sách lớn, có tính đột phá, sáng tạo trong nhiệm kỳ mới.
 
Về nội dung, nhìn tổng quát thì NQĐH XII kế thừa và tiếp tục khẳng định những tư tưởng cơ bản mà Đảng ta đã xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NQĐH XI và các nghị quyết của Đảng ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay. So với NQĐH XI, mục tiêu tổng quát trong NQĐH XII có bổ sung, nhấn mạnh các thành tố, nhiệm vụ: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN”. Điểm mới nữa là NQĐH XII tuy vẫn kiên trì mục tiêu “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, nhưng không xác định mốc thời gian “đến năm 2020” như NQĐH XI xác định.
 
NQĐH XII cũng đề ra các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được trong nhiệm kỳ như NQ các đại hội trước. Đáng chú ý là các chỉ tiêu: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm tới đạt 6,5 đến 7%/năm (NQĐH XI là từ 7,0-7,5%/năm); đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200-3.500 USD (NQĐH XI: Đến năm 2015 đạt 2.000 USD).
 
Về nhiệm vụ, NQĐH XII yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm, nhiệm vụ trên tất cả các lĩnh vực đã nêu trong Báo cáo Chính trị và Báo cáo KT-XH, trong đó cần tập trung vào 6 nhiệm vụ trọng tâm (Đại hội XI có 7 nhiệm vụ trọng tâm).
 
Về chủ đề Đại hội 
 
Chủ đề đại hội nêu lên tư tưởng chỉ đạo và những định hướng cơ bản của cả một nhiệm kỳ hoặc dài hơn, yếu tố đầu tiên có tính quyết định đến sự thành công của mỗi kỳ đại hội. 
 
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, mở đầu thời kỳ đổi mới (1986) đến Đại hội Đảng lần thứ XII (2016), mỗi đại hội đều đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước, được thể hiện rõ nét tư tưởng chỉ đạo cơ bản, chi phối toàn bộ Báo cáo chính trị của Đại hội, đó cũng chính là chủ đề đại hội. Các Đại hội VI, VII và VIII chủ đề không được trình bày dưới dạng tiêu đề của Báo cáo chính trị mà được hàm ẩn trong các nội dung văn kiện nhưng vẫn toát lên tư tưởng chỉ đạo một cách sâu sắc, rõ nét. Cụ thể là: Đại hội VI (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, được coi là Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước được Đảng ta khởi xướng cà lãnh đạo; Đại hội VII (1991) là Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH; Đại hội VIII (1996) đánh đấu sự chấm dứt thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội (gần 15 năm) và mở ra thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
 
Từ Đại hội Đảng lần thứ IX, X và XI, chủ đề đại hội được thể hiện ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị. Cụ thể là: Đại hội IX (2001): “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”; Đại hội X (2006): “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”; Đại hội XI (2011): “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. So sánh tiêu đề của ba đại hội này, chúng ta nhận thấy các thành tố nêu ra cơ bản giống nhau, chỉ khác về thứ tự sắp xếp và mức độ yêu cầu ngày càng được nâng lên. 
 
Đại hội Đảng lần thứ XII có tiêu đề: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tiêu đề Báo cáo chính trị  Đại hội XII đã có sự thay đổi không chỉ về mặt cấu trúc các thành tố một cách toàn diện hơn mà còn bổ sung, phát triển và nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của từng thành tố đó. 
 
Xuất phát từ chủ đề này, Đại hội XII đã đề ra mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới là: (1) Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ XHCN. (2) Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. (3) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. (4) Giữ gìn hòa bình ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
 
Đồng thời, Đại hội còn nêu rõ: “Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
 
Về phát huy các nhân tố tạo thành động lực để phát triển đất nước
 
Tăng trưởng kinh tế có thể được thúc đẩy bởi nhiều nhân tố; tùy từng giai đoạn phát triển khác nhau mà một hay một số nhân tố này sẽ nổi lên trở thành nhân tố then chốt, hay còn gọi là động lực của tăng trưởng. Vì vậy, muốn thành công trong đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải xác định những động lực tăng trưởng phù hợp cho từng thời kỳ. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định động lực cho tăng trưởng trong giai đoạn này là “…nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Cùng với đó là chuyển mạnh mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng sang mô hình chủ yếu theo chiều sâu. 
 
Đại hội XII đặt vấn đề phát huy các nhân tố tạo thành động lực mới để đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước; đồng thời yêu cầu cần nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố đó, chẳng hạn như: Hài hoà lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ; tiếp tục đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách, tổ chức,…Giải quyết đúng đắn các vấn đề này sẽ tạo ra động mới cho giai đoạn phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Đây là vấn đề mới mà văn kiện các Đại hội trước ít đề cập đến. 
 
Xác định “trụ cột” phát triển đất nước và nhiệm vụ trọng tâm 
 
“Bốn trụ cột” phát triển đất nước trong thời kỳ mới 
 
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày nêu rõ: Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Điểm mới nổi bật trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng không chỉ xác định phát triển kinh tế là trung tâm mà cả phát triển xã hội là trung tâm; không chỉ xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần mà cả xây dựng con người làm nền tảng tinh thần.
 
Nhiệm vụ trọng tâm 
 
Từ chủ đề của Đại hội XII, Báo cáo chính trị xác định phải đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn bộ hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế; Kiên quyết đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân; Phát hy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm Đại hội XII, nổi bật lên nhiệm vụ trung tâm và then chốt.
 
Về nhiệm vụ trung tâm
 
Công cuộc đổi mới trong 30 năm qua, nhất là 10 năm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, đất nước ta đã đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; trở thành nước phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu đạt được, nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém và khuyết điểm. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực huy động; kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng suy giảm, phục hồi chậm; còn tiềm ẩn một số nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Việc tạo nền tảng để cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Đó là chưa nói tới nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
 
Để khắc phục tình trạng đó, Đại hội XII đưa ra quyết sách là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điểm khác của Đại hội XII so với Đại hội XI là bổ sung từ “đồng bộ” bởi thiếu đồng bộ sẽ tạo nên những điểm ngẹn, làm phát sinh mâu thuẩn, triệt tiêu lẫn nhau, khó phát huy sức mạnh tổng hợp và dùng chữ “sớm” thay cho “vào năm 2020” đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, với hàm ý việc không thể thực hiện vào năm 2020 mà còn cần thêm một thời gian nữa, nhưng với yêu cầu phải sớm, không thể chậm trễ hơn, nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trong Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) là: Từ nay đến giữa thế kỷ 21, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN. Điều này, Đảng ta cũng đã từng thực hiện ở nhiệm kỳ Đại hội X, dùng chữ “sớm” thay vì “đến năm 2010, phấn đấu đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển” và thực tế, mục tiêu này đã thành hiện thực sớm hơn một năm.
 
Về nhiệm vụ then chốt
 
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng là then chốt, nhiều nhiệm kỳ liên tiếp, đặc biệt nhiệm kỳ Đại hội XI, Đảng ta đã kiên trì, nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạt được những kết quả quan trọng, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, thể hiện trên nhiều mặt, nhiều khâu công tác; tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; chất lượng sinh hoạt đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình, phê bình còn yếu; tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu quả hoạt động chưa cao; trong khi đó, đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao…làm suy giảm niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.
 
Chính vì vậy, Đại hội XII đặc biệt nhấn mạnh: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, là thành tố đầu tiên của chủ đề Đại hội. Đó là vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách. Đại hội còn chủ trương, phải “đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI” và “Tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”.
 
Nét mới về xây dựng Đảng trong Đại hội lần này là đưa nội dung đạo đức ngang với chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều đó cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng trong việc đẩy lùi, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã đề ra.  
 
Việc Đại hội XII đưa nhiệm vụ xây dựng Đảng làm thành tố thứ nhất của chủ đề Đại hội cũng nhằm tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đã tổng kết thành bài học sâu sắc được nêu trong Cương lĩnh và các văn kiện quan trọng khác của Đảng. Từ đó, yêu cầu Đảng phải không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức… Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
 
PHẦN THỨ HAI: NHỮNG CHỦ TRƯƠNG MỚI, NHỮNG VẤN ĐỀ CỐT LÕI 
 
1. Chủ trương tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức (KTTT); hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
 
Để thực hiện mục tiêu “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, kế thừa những kết quả đạt được trong 30 đổi mới đất nước, Văn kiện Đại hội XII đã có những phát triển mới rất rõ nét về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
 
1.1. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
 
Về đổi mới mô hình tăng trưởng
 
Đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong 30 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã bộc lộ không ít yếu kém. Tăng trưởng tuy vẫn tương đối cao nhưng đang có xu hướng chậm lại; chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Thực trạng này, trước hết là do mô hình tăng trưởng đã không còn phù hợp, không còn khả năng duy trì tăng trưởng cao và bền vững. Vì vậy, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, vấn đề đặt ra là phải đổi mới mô hình tăng trưởng phù hợp với quy mô nền kinh tế sau 30 năm đổi mới.
 
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là việc xác lập khung khổ chung, hay mô thức chung định hướng vận hành nền kinh tế trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực của quốc gia với một cơ cấu nền kinh tế hợp lý, hiệu quả, hiện đại, nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao theo hướng phát triển bền vững. Việc hình thành các mô hình tăng trưởng kinh tế tùy theo mức độ đóng góp khác nhau của các nhân tố tác động vào sự tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng kinh tế gồm: tăng trưởng theo chiều rộng, theo chiều sâu và kết hợp chiều rộng với chiều sâu. 
 
Lựa chọn mô hình tăng trưởng sao cho vừa thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống dân cư mà không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình, vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái là một trong những vấn đề vừa bức thiết vừa cơ bản của nước ta hiện nay và trong phương hướng tới. Không phải bây giờ Đảng ta mới đặt ra vấn đề này, mà đây là một chủ trương lớn, quan trọng đã được nêu ra từ Đại hội XI của Đảng (thậm chí trước đó nữa). Đến Đại hội XII, Đảng ta xác định định hướng đổi mới mô hình tăng trưởng là: “… kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc)...”. Như vậy, đổi mới mô hình tăng trưởng theo tinh thần Đại hội XII là kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, nhưng chủ yếu là chuyển mạnh từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.  
 
Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, dựa vào xuất khẩu, thâm dụng lao động, phụ thuộc quá nhiều vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), năng suất lao động thấp, hiệu quả đầu tư không cao,… Đây cũng chính là thực trạng của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua. Thực tế mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng ở nước ta trong 30 qua đã đạt kết quả tích cực:  tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh, cao trong một thời gian nhất định (khoảng 6% - 7%/năm); quy mô của nền kinh tế được mở rộng đáng kể; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên; góp phần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển và trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, nếu tiếp tục kéo dài mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, thì sẽ không còn phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập quốc tế sâu, rộng và toàn diện như hiện nay. Bối cảnh quốc tế cũng như trong nước hiện nay, động lực của sự phát triển chủ yếu dựa vào chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; là nguồn nhân lực chất lượng cao, thay vì động lực dựa vào khai thác tài nguyên xuất khẩu và lực lượng lao động rẻ như trước đây. Hơn nữa, khi mà tài nguyên, lao động rẻ được khai thác quá mức thì động lực tăng trưởng, phát triển kinh tế sẽ không còn và Việt Nam sẽ rơi vào thời kỳ tăng trưởng thấp, dưới mức tiềm năng; đồng thời càng khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,… Điều đó dẫn đến sẽ làm suy yếu khả năng tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế; tác động xấu đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị khai thác cạn kiệt; đất nước vẫn ở trong tình trạng tụt hậu xa so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, mất nhiều thập kỷ vẫn không trở thành quốc gia phát triển (có GDP hơn 9.385 USD/người/năm và đạt các tiêu chí khác về phát triển công nghệ, kinh tế - xã hội).
 
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu là dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, sự đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP); hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, giảm chi phí sản xuất; chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế của đất nước. Tăng trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, mà còn gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội; ...Động lực quan trọng nhất và cũng là điều kiện để đổi mới mô hình tăng trưởng là đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh… 
 
Từ những vấn đề đặt ra, chủ trương định hướng mô hình tăng trưởng như Văn kiện Đại hội XII của Đảng là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay. Đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng này nhằm vừa thúc đẩy kinh tế phát triển có hiệu quả, tăng nhanh thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình; vừa giải quyết được vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái…
 
Về tái cơ cấu nền kinh tế
 
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, bởi để thực hiện việc đổi mới mô hình tăng trưởng phải cơ cấu lại nền kinh tế, nhằm khắc phục những khuyết tật, những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng; đồng thời xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu của mô hình tăng trưởng mới. 
 
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là xác lập, định hướng cách thức vận hành nền kinh tế để đạt các mục tiêu tăng trưởng, phát triển; còn cơ cấu lại nền kinh tế là hiện thực hóa cách thức vận hành nền kinh tế theo mô hình đã được lựa chọn. Trong điều kiện hiện nay, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế phải là quá trình thực hiện hiệu quả ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường. Đây là những tư tưởng quan trọng nhất, cũng là những nét mới trong tư duy phát triển hiện đại. 
 
Cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình tăng trưởng được ĐHXII xác định đòi hỏi phải vừa khai thác lợi thế cạnh tranh hiện có, vừa tạo điều kiện để hình thành và xây dựng các lợi thế cạnh tranh trong tương lai ở một số ngành của nền kinh tế; cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hội nhập và định hướng xuất khẩu; kết nối được nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và toàn cầu; cải thiện vị thế của từng doanh nghiệp, từng ngành và cả nền kinh tế trong chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời chú ý hơn đến nhu cầu tiêu dùng trong nước.
 
Văn kiện ĐHXII đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng: cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, từng bước cơ cấu lại ngân sách nhà nước; cơ cấu lại và giải quyết có kết quả vấn đề nợ xấu, bảo đảm an toàn nợ công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gắn với phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới”.
 
Về tái cơ cấu đầu tư công, công việc trước hết phải làm là cắt giảm số lượng vốn và số dự án đầu tư công; thực hiện phân bổ vốn cho những dự án quan trọng ưu tiên, chủ yếu trong phát triển hạ tầng. Lựa chọn và tập trung vốn cho dự án có có hiệu quả kinh tế - xã hội cao; đổi mới và sáng tạo trong đầu tư theo hướng “đầu tư ít hơn, hiệu quả cao hơn”, hạn chế chạy theo số lượng đầu tư, ngăn chặn tình trạng đầu tư bằng mọi giá như thời gian qua…
 
Tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng đã và đang tập trung xử lý một số nội dung chính, gồm tái cơ cấu các ngân hàng thương mại yếu kém; xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và tái cơ cấu tổng thể, toàn diện cả hệ thống nói chung và từng tổ chức tín dụng nói riêng.
 
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) tập trung vào các nhóm giải pháp: Xác lập và áp đặt đầy đủ nguyên tắc thị trường và chế độ chính sách cứng đối với DNNN, buộc các DNNN phải cạnh tranh bình đẳng như các doanh nghiệp ở khu vực khác; thiết lập, hoàn thiện khung quản trị theo thông lệ quốc tế phổ biến, nâng cao hiệu lực quản trị công ty đối với các doanh nghiệp nhà nước; thu hẹp quy mô hoạt động của các DNNN để DNNN tập trung vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh chính. Tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, công nghiệp quốc phòng, an ninh…
 
Tái cơ cấu nông nghiệp là nhiệm vụ hết sức quan trọng và rất khó khăn, bởi nước ta có hơn 2/3 dân số ở nông thôn; nông nghiệp những năm gần đây tuy đạt những thành tựu đáng tự hào, nhưng kém bền vững, dễ bị tổn thương trước tác động của thiên nhiên, diễn biến bất lợi của thị trường. Vì vậy, tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới xác định mục tiêu chính là phát triển bền vững theo ba trụ cột kinh tế - xã hội và môi trường. Từ đó, yêu cầu phải đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tập trung phát triển sản phẩm có lợi thế so sánh, giá trị gia tăng cao, bảo đảm các tiêu chuẩn theo yêu cầu xuất khẩu, có khả năng tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu…
 
Nhìn chung, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam sẽ phải tiến hành trong nhiều năm với không ít khó khăn, thách thức. Trong quá trình đó, bên cạnh những đổi mới, sáng tạo ở trong nước, cần học hỏi những kinh nghiệm, bài học thành công và thất bại trong tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở các nước khác.
 
1.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức (KTTT)
 
Trên cơ sở tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn 30 năm đổi mới CNH, HĐH đất nước, Đại hội XII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “Đẩy mạnh CNH, HĐH, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; trong đó xác định (1) “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế gắn với phát triển KTTT, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển”. (2) Tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp quốc phòng, an ninh… (3) Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu; có chính sách phù hợp để tích tụ, tập trung ruộng đất. (4) Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, nhất là một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế. (5) Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. (6) Phát triển kinh tế vùng, liên vùng; từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường. (7) Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại. 
 
Chính sách công nghiệp quốc gia là một trong những điểm mới của Đại hội XII nhằm phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, đóng vai trò quyết định, đồng thời thu hút có hiệu quả các nguồn lực nước ngoài, đóng vai trò quan trọng) cho CNH, HĐH. Cơ cấu lại hệ thống chính sách công nghiệp quốc gia, hoàn thiện bổ sung để phát triển công nghiệp quốc gia trong giai đoạn tới nhằm phát huy vai trò tích cực của thị trường trong phân bổ các nguồn lực cho phát triển công nghiệp. Chính sách phát triển công nghiệp quốc gia phải lấy khoa học và công nghệ là nền tảng để đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức; đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, coi nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, phải tuân thủ và đảm bảo năng lực cạnh tranh, thực hiện các cam kết, hiệp định song phương, đa phương đã tham gia, ký kết; đảm bảo sự gắn kết giữa phát triển công nghiệp với thương mại, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, hiện đại hóa quản lý và phát triển đô thị; gắn sản xuất với thị trường, gắn thị trường công nghệ với thị trường sản xuất; cần quan tâm định hướng hoàn thiện và xây hệ thống chính sách công nghiệp hỗ trợ, hệ thống các nhóm chính sách mới...
 
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn đều chỉ ra rằng, CNH,HĐH là một quá trình lịch sử tất yếu mà Việt Nam phải trải qua nhằm cải biến nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo đó, nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình “lồng ghép”, kết hợp phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt: một mặt, phải phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp cơ bản; mặt khác, phải phát triển những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao. Vì thế, mạnh dạn đi ngay vào phát triển KTTT thì chúng ta mới có khả năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH,HĐH để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. 
 
1.3. Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
 
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng, Nhà nước đã chú trọng nghiên cứu và đề ra nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN; luôn coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước. Đến nay, nhận thức về mục tiêu, đặc trưng và cơ chế vận hành của nền KTTT định hướng XHCN ngày càng rõ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện, tạo khung pháp lý đồng bộ, thuận lợi hơn cho sự vận hành của nền KTTT định hướng XHCN… Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục xác định: Việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN được xem là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên, KTTT ở Việt Nam cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần sớm có những giải pháp đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả hơn. Từ đó đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
 
Từ những nhận thức có giá trị định hướng về vai trò của kinh tế thị trường, định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cũng như doanh nghiệp các thành phần khác, Đại hội XII xác định một số nội dung cơ bản về hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN cần tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện tốt trong giai đoạn 2016 – 2020 như sau:
 
Một là, trong thiết kế và vận hành thể chế KTTT định hướng XHCN, cần phải tiếp tục hoàn thiện đồng bộ 3 bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế có quan hệ hữu cơ: (1) Hệ thống pháp luật, quy tắc, chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi và giao dịch kinh tế; (2) Các thể chế về chủ thể và các yếu tố, các loại thị trường trong nền kinh tế; (3) Cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh và xử lý vi phạm trong nền kinh tế. 
 
Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, nhất là các thiết chế giải quyết tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế; phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thể chế hóa quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được xác lập trong Hiến pháp. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; hoàn thiện thể chế định giá tài sản, kể cả đất đai, tài sản vô hình trong cổ phần hóa. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản trị kinh doanh của DNNN… 
 
Ba là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; từng bước, theo lộ trình thực hiện mở cửa, gắn kết thị trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ với thị trường khu vực và thế giới; đẩy mạnh cơ cấu lại thị trường tài chính, thị trường bảo hiểm, hệ thống ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu của nền kinh tế. Hoàn thiện thể chế về giá, phí, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính sách…
 
Bốn là, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội trong từng chương trình, dự án; trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chú trọng nghiên cứu, ban hành đồng bộ các chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất, tăng tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
 
Năm là, hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng, quy hoạch và phân công, phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương. Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Tạo lập thể chế kinh tế đặc thù, đẩy mạnh phát triển các địa phương có thế mạnh, vùng kinh tế trọng điểm thực sự trở thành đầu tàu, động lực lan tỏa vùng và cả nước.   
 
Sáu là, chủ động hội nhập quốc tế, tham gia và khai thác có hiệu quả lợi ích kinh tế các hiệp định tự do hóa kinh tế song phương và đa phương, gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể. Xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách hội nhập kinh tế liên ngành, liên lĩnh vực, chính sách đầu tư và bảo hộ đầu tư, chính sách quản lý cạnh tranh và điều tiết thị trường, chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thị trường KHCN, chính sách môi trường...
 
Bảy là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật… 
 
2. Chủ trương phát triển các vấn đề giáo dục và đào tạo (GDĐT); khoa học và công nghệ (KHCN); văn hóa; xã hội và môi trường
 
Báo cáo chính trị Đại hội XII phần đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, những nội dung về văn hoá, xã hội được trình bày thành 4 vấn đề: (1) Đổi mới căn bản và toàn diện GDĐT; phát triển nguồn nhân lực; (2) Phát triển và ứng dụng KHCN; (3) Phát triển văn hoá, xây dựng con người; (4) Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Hiểu theo nghĩa rộng, GDTĐ và KHCN là bộ phận của văn hoá, song vì đây là hai lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nên văn kiện trình bày thành hai vấn đề riêng. Đại hội XII kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị trong Văn kiện Đại hội XI; tiếp thu, chọn lọc những nội dung cốt lõi của các nghị quyết Trung ương khoá XI về văn hoá, xã hội, nâng lên tầm văn kiện; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước để lựa chọn những nhiệm vụ, giải pháp phù hợp và có thể thực hiện được trong 5 năm tới; trong đó có những điểm mới nổi bật…
 
2.1. Về đổi mới căn bản và toàn diện GDĐT; phát triển nguồn nhân lực
                
Đại hội XII tiếp tục khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu và đề ra phương hướng: Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; phát triển GDĐT phải gắn với nhu cầu phát triển KT – XH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ KHCN; phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả GDTĐ; phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
                                                      
Từ đó, Đại hội XII xác định những nhiệm vụ chủ yếu: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của GDTĐ theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; đổi mới căn bản công tác quản lý GDTĐ, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở GDĐT; coi trọng quản lý chất lượng; phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới GDTĐ; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GDĐT.
 
Để thực hiện chủ trương đó, thời gian tới cần tập trung vào một số vấn đề rất cơ bản và quan trọng là: (1) Đổi mới mục tiêu giáo dục để phù hợp với bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ mới nhằm vừa chú ý phát triển hài hòa con người xã hội, con người công dân và con người cá nhân, vừa hướng tới phát huy cao nhất tiềm năng của mỗi học sinh; chú trọng giáo dục cả phẩm chất và năng lực của người học; kết hợp hài hòa dạy chữ, dạy nghề và dạy người; chú trọng giáo dục hướng nghiệp, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp... . (2) Đổi mới nội dung chương trình GDĐT bảo đảm tính khoa học, cơ bản, hiện đại; nhưng tinh giản, dễ hiểu, lựa chọn những kiến thức có tính ứng dụng cao; chú trọng các môn khoa học xã hội - nhân văn; giảm gánh nặng học hành cho học sinh… (3) Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức với phương châm “giảng ít, học nhiều”, “học đi đôi với hành”; nội dung, chương trình, sách giáo khoa, giáo trình phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối tượng ... (4) Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả GDĐT một cách mạnh mẽ, nhằm bảo đảm độ tin cậy, chính xác, tính khách quan, trung thực về kết quả học tập của học sinh; làm cơ sở cho việc điều chỉnh cách dạy, cách học. (5) Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. (6) Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học, công nghệ trong nhà trường; thí điểm chuyển mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý, đầu tư.
 
Việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo là việc hết sức trọng đại, phải thực hiện rất nhiều nội dung công việc, nhiều bước tiến hành, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và toàn xã hội, do đó cần: 
 
Thứ nhất, có sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân; phát huy trí tuệ, huy động nhiều nguồn lực và có sự phối hợp của nhiều cơ quan, ban ngành và các tổ chức xã hội, trong đó ngành GDĐT đóng vai trò chủ đạo. 
 
Thứ hai, xác định rõ các yếu tố cơ bản của GDĐT cần đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ, theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học dựa trên cơ sở phân tích chính sách của Đảng, Nhà nước; bối cảnh, trình độ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; trình độ, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Việt Nam; kinh  nghiệm và xu hướng quốc tế…
 
Thứ ba, khi xây dựng chương trình, mục tiêu giáo dục cần được cụ thể hóa thành phẩm chất và năng lực cần cho học sinh, được thể hiện dưới dạng yêu cầu cần đạt cụ thể cho từng cấp học; bao gồm năng lực chung và năng lực đặc thù môn học. 
 
Để thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng có tính quyết định. Do đó, Đại hội XII của Đảng xác định là: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Đồng thời yêu cầu “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành. Phát triển hợp lý, hiệu quả các loại hình trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học”.
 
Cụ thể hóa quan điểm nêu trên, Nhà nước phải xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; các cơ sở GDĐT nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là cơ sở giáo dục đại học công lập cần  thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động; xây dựng nhà trường theo mô hình các trường đại học hiện đại trên thế giới; đơn vị sử dụng lao động cần tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc; thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng trên cơ sở tăng cường quyền lực thực tế cho lãnh đạo các cấp; thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao...
 
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh và hướng tới nền kinh tế tri thức, các quốc gia đều chú trọng đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Với Việt Nam, để không tụt hậu xa so với trình độ chung của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, chúng ta phải thật sự có các chính sách đổi mới GDTĐ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

2.2. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ (KHCN) 
 
Đại hội XII tiếp tục xác định phương hướng: (1) Phát triển mạnh mẽ KHCN, làm cho KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. (2) Phát triển, ứng dụng KHCN cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. (3) Phấn đấu đến năm 2020, KHCN Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến trên thế giới.
 
Nhiệm vụ tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng KHCN trong 5 năm tới là: (1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động KHCN, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư, cơ chế tài chính để giải phóng năng lực sáng tạo; đưa nhanh tiến bộ KHCN vào hoạt động thực tiễn; sắp xếp lại hệ thống tổ chức KHCN; tăng cường liên kết giữa tổ chức KHCN với doanh nghiệp, giữa Nhà nước – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp – nhà nông; tăng cường hợp tác về KHCN, nhất là công nghệ cao, phải là hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế; xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh người tài.... (2) Phát huy và tăng cường tiềm lực KHCN quốc gia. 
 
Để thực hiện định hướng, nhiệm vụ đề ra, khoa học, công nghệ cần tập trung: 
 
Thứ nhất, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.
 
Thứ hai, tăng cường liên kết giữa các tổ chức KHCN với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông; khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu và ứng dụng KHCN.
 
Thứ ba, phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ KHCN, phát triển thị trường KHCN, đồng thời hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ...theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường KHCN.
 
Thứ tư, có chính sách đào tạo, trọng dụng, tôn vinh đội ngũ cán bộ KHCN, nhất là các chuyên gia có nhiều đóng góp; khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động KHCN tại Việt Nam. 
 
2.3. Về xây dựng, phát triển văn hoá, con người
 
Kế thừa, phát triển những quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hóa; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khoá XI  về "Xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước"; Đại hội XII nhấn mạnh: Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của văn hoá, con người; phải thực hiện có kết quả mục tiêu xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hoá, con người.
 
Từ yêu cầu, điều kiện cụ thể của đất nước trong 5 năm tới, Đại hội XII lựa chọn, định hướng 6 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa; Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo văn hóa của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa.
 
Để hiện thực hóa tư tưởng chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, phát triển văn hoá, con người trong Nghị quyết Đại hội XII, chúng ta cần nhận thức, quán triệt những nội dung chính sau đây:  
 
Thứ nhất, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là: (1) Đúc kết, từng bước xây dựng trong thực tế các chuẩn mực giá trị văn hoá và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân; (2) Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật; làm cho mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hoá dân tộc; khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn; (3) Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hoá, làm tha hoá con người; ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam. 
 
Thứ hai, gắn xây dựng con người với xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng: (1) Xây dựng môi trường văn hoá, đời sống văn hoá lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình; (2) Phát huy vai trò văn hoá trong gia đình, nhà trường, cộng đồng; (3) Thường xuyên quan tâm xây dựng nếp sống văn hoá tiến bộ, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc vận động văn hoá, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; (4) Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội; (5) Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hoá tôn giáo, tín ngưỡng. 
 
Thứ ba, đề cao nhiệm vụ xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế: Chú trọng chăm lo xây dựng văn hoá trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; thường xuyên quan tâm xây dựng văn hoá trong kinh tế; xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân. 
 
Thứ tư, phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hoá: Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hoá; tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hoá, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển; đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hoá lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hoá...
 
2.4. Về quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
 
Quán triệt và cụ thể hoá tư tưởng Đại hội XI vào điều kiện 5 năm tới, Đại hội XII nêu rõ phương hướng: (1) Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc…; (2) Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mọi người đều có cơ hội và điều kiện để phát triển toàn diện…Điểm nhấn và cũng là điểm mới của Đại hội XII là vấn đề quản lý phát triển xã hội và một số vấn đề xã hội liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội.
 
Về vấn đề quản lý phát triển xã hội, cần chú trọng: (1) Trong xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hoá giàu - nghèo, bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững; (2) Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hoà cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý; (3) Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro; ngăn chặn, giải quyết có hiệu quả những bức xúc, mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột trong xã hội; (4) Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người. 
 
Về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, cần quan tâm một số vấn đề cơ bản sau:
 
- Thực hiện tiến bộ công bằng xã hội là phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân, bảo đảm để Nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện.
 
- Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công trên cơ sở huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực Nhà nước; bảo đảm người có công có mức sống từ trung bình trở lên.
 
- Giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội; mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động…; phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ người yếu thế…
 
- Coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc. Huy động các nguồn lực phát triển sự nghiệp y tế; đổi mới cơ chế tài chính  gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
 
Những điểm mới về văn hoá, xã hội nêu trong dự thảo Văn kiện Đại hội XII phản ánh bước tiến về tư duy lý luận của Đảng. Những nhận thức này đang được cán bộ, đảng viên, nhân dân nghiên cứu, đóng góp ý kiến để bổ sung, hoàn thiện. Sau khi được Đại hội XII nhất trí thông qua sẽ trở thành những định hướng chính trị hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân phấn đấu triển khai, tạo những chuyển biến mới trong đời sống văn hoá, xã hội theo mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 
 
3. Chủ trương về tăng cường quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường (BVMT); chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH)
 
Đại hội XII nêu rõ: Nhận thức về tầm quan trọng của tài nguyên, khai thác, quản lý và sử dụng tài nguyên, BVMT, phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH được nâng lên. Nhà nước và các cơ quan quản lý đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách quản lý và tăng cường đầu tư. Hợp tác quốc tế về quản lý tài nguyên, ứng phó với BĐKH, phòng, chống thiên tai được đẩy mạnh. Tuy nhiên, tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả và bền vững; một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt. Ô nhiệm môi trường (ÔNMT) tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng. Đa dạng sinh học (ĐDSH) suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, ảnh hưởng tiêu cực đến phát kinh tế - xã hội, sức khoẻ và đời sống nhân dân. Việc ứng phó với BĐKH còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản… 
 
Từ thực trạng đó, Đại hội XII đã xác định phương hướng: (1) Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, BVMT, chủ động ứng phó với BĐKH phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn. (2) Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển KT-XH, QP-AN; chú trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới; ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra.
 
Tư tưởng chỉ đạo quản lý tài nguyên, BVMT, chủ động ứng phó với BĐKH là: (1) BVMT tự nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát triển bền vững; hạn chế, tiến tới khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ÔNMT của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. (2) Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản; bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường tự nhiên với môi trường sống ở các KCN, đô thị, dân cư. (3) Phát triển KT - XH đi đôi với BVMT, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; tăng cường phổ biến pháp luật và tuyên truyền trong xã hội về BVMT, bảo vệ tài nguyên và ứng phó với thiên tai, BĐKH; tích cực hợp tác quốc tế trong việc BVMT và ứng phó với BĐKH.
 
Về thực hiện các nhiệm vụ quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; Đại hội XII nhấn mạnh: 
 
Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia; quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia; phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới thay thế các nguồn tài nguyên truyền thống…
 
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để BVMT, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ÔNMT, tăng cường phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ÔNMT. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. 
 
Thứ ba, chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với BĐKH, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng phó với thiên tai, giám sát BĐKH và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ. Đầu tư thích đáng và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với BĐKH...
 
4. Chủ trương bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
 
4.1. Bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định
 
Báo cáo chính trị Đại hội XII có nêu: “Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới”. Cụm từ "trong tình hình mới" là điểm mới được nhấn mạnh và được thể hiện trong mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể.  
 
Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hoá dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
 
Đại hội XII cũng xác định: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là nòng cốt. 
 
Như vậy, nội hàm của vấn đề bảo vệ Tổ quốc được mở rộng và bao trùm hơn, thể hiện tính toàn diện, tổng thể của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ở đây, cần đặc biệt chú trọng tới mối quan hệ biện chứng của mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc… luôn gắn liền với mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định của quốc gia. Đây là hai mặt của vấn đề liên quan hết sức mật thiết với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, cần luôn luôn coi mục tiêu tối thượng là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN và đi liền với đó là phải giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định để tranh thủ mọi nguồn lực (cả trong và ngoài nước) nhằm xây dựng, phát triển đất nước bền vững hơn. Tích cực đấu tranh với những quan điểm phiến diện, lệch lạc về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
 
Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đại hội XII đã khẳng định những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới; quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi những quan điểm cơ bản đó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, trong đó cần nắm vững một số vấn đề cơ bản sau:
 
Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia trong tình hình mới; phải coi “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là tạo điều kiện, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; ngược lại, thành quả xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội lại tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh của quốc gia. 
 
Thứ hai, cần quán triệt và nâng cao hơn nữa trong nhận thức và hành động về mục tiêu, nội dung, yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới với nội hàm được mở rộng và bao trùm hơn, thể hiện tính toàn diện, tổng thể của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tích cực đấu tranh với những quan điểm phiến diện, lệch lạc về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay…
 
Thứ ba, cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vấn đề phát huy sức mạnh tổng hợp cũng như phương châm, phương pháp tiến hành bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Sức mạnh tổng hợp được xác định là sức mạnh của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị; tranh thủ cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo đó, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh tổng hợp vì mục tiêu “hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng... 
 
Thứ tư, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; tích cực xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
 
4. 2. nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
 
Việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại phải lấy lợi ích quốc gia – dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng nhất; là vấn đề cốt lõi và là mục tiêu tối thượng của hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích quốc gia – dân tộc không đi ngược lại các giá trị chính nghĩa, tiến bộ, nhân văn của nhân loại. Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng thể hiện quan điểm nhất quán là triển khai, thực hiện công tác đối ngoại để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại để phục vụ đối nội. Đẩy mạnh, mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thúc đẩy để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH; tạo môi trường hòa bình, ổn định, thiết thực góp phần bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
 
Phương hướng hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế nhằm bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế;... Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn; tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại…Trong khi nhận rõ hợp tác phát triển là xu thế nhưng không mơ hồ chỉ thấy hợp tác một chiều, mà hợp tác đồng thời phải đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh để bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia; đồng thời đấu tranh, cạnh tranh để hợp tác chứ không dẫn tới đối đầu, bất lợi.
 
5. Chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ XHCN; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
 
5.1. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
 
Đại hội XII xác định phương hướng: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
 
Về chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII có nêu: "Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân"; "Tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc"; “tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
 
Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã phát huy tốt vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố mở rộng tổ chức, phát triển hội viên, đoàn viên; tổ chức nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực.
 
5.2. Phát huy dân chủ XHCN
 
Theo quan điểm của Đảng, nền dân chủ XHCN mà chúng ta đang xây dựng là nền dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về nguyên tắc với dân chủ tư sản, được thể hiện trên những vấn đề chủ yếu: Dân chủ XHCN chỉ xuất hiện khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giành được chính quyền và ngày càng phát huy trong quá trình xây dựng xã hội mới; là nền dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo; là dân chủ của đa số, của người lao động, vì đa số và người lao động; là chế độ dân chủ, mà ở đó, nhân dân lao động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm; dân chủ XHCN được thực hiện bằng hệ thống tổ chức thể hiện quyền lực chính trị - xã hội thuộc về nhân dân, tập trung và thông qua nhà nước; không ngừng mở rộng, phát huy dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương, pháp luật là quy luật của sự phát triển dân chủ XHCN. 
 
Điều đó không chỉ được khẳng định Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 2011), trong Hiến pháp, các văn kiện của của Đảng, văn bản pháp luật, mà còn được thể hiện sinh động trên các lĩnh vực, trong các hoạt động của đời sống xã hội. Tuy nhiên, vấn đề phát huy dân chủ trên thực tế vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm đáng quan tâm; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương pháp luật; việc thực hiện dân chủ có lúc, có nơi còn bị hạn chế hoặc mang tính hình thức…  
        
Từ thực tế và yêu cầu phát huy dân chủ XHCN, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định những vấn đề về bản chất, phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu, nguyên tắc, biện pháp để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Trong đó, phương hướng chỉ rõ: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân (...). Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”. 
 
Việc quán triệt và triển khai thực hiện chủ trương phát huy dân chủ XHCN, đảm bảo thực hiện quyền làm chủ của nhân dân theo tinh thần Đại hội XII, cần chú ý một số vấn đề sau đây:
 
Thứ nhất, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; tiếp tục phát huy hiệu quả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; mở rộng và phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ cương, pháp luật… 
 
Thứ hai, việc nhấn mạnh “phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội” là giải pháp đúng đắn, khoa học. Bởi, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng sẽ tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên vận dụng, thực hành ở từng cơ quan, đơn vị, tổ chức, trở thành hình mẫu, tấm gương cho việc thực hiện và phát huy dân chủ trong xã hội. Từ dân chủ trong Đảng, sẽ tiếp tục mở rộng và phát huy tốt hơn dân chủ trong toàn bộ hệ thống chính trị và trong Nhân dân...Đồng thời qua đó, góp phần đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về: “Việt Nam vi phạm dân chủ”, “mất dân chủ”… 
 
Thứ ba, muốn phát huy hiệu quả hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đòi hỏi phải thể chế hoá và nâng cao hơn nữa chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. 
 
Thứ tư, phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân...
 
Thứ năm, Đảng yêu cầu Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nâng cao vai trò chủ động, sáng tạo trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ để thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội…
 
5.3. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
 
Về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, Đại hội XII nêu lên nhiều nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật là việc hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức vận hành, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013; thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý; hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính... 
 
Việc triển khai thực hiện cần quán triệt sâu sắc những nội dung chủ yếu sau đây:
 
- Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền; giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh. Bảo vệ pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội… 
 
- Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền.
 
- Tiếp tục chi tiết hóa, cụ thể hóa, nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội.
 
- Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển cán bộ quản lý.
 
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời thường nhắc nhở: “Muốn đoàn kết thực sự phải có dân chủ thực sự” và khi đã có dân chủ thực sự thì quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng và phát huy, quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân; từ đó các cơ quan Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của hân dân. Đây là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
 
6. Chủ trương xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
 
Văn kiện Đại hội XII khẳng định: Đánh giá chung, công tác xây dựng Đảng 5 năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Với những kết quả quan trọng đạt được, Đảng ta giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, “Công tác xây dựng Đảng trong 5 năm qua còn nhiều hạn chế, khuyết điểm”; “làm cho Đảng ta chưa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”.
 
Vì vậy trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta xác định phải tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
 
Về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Báo cáo chính trị nêu trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. Ngoài ra, ở phần nhiệm vụ, giải pháp, Văn kiện đề ra 10 nội dung, tất cả đều được bổ sung phát triển trên cơ sở kế thừa từ các văn kiện Đại hội khoá trước. 
 
Trước hết, phải chú trọng xây dựng Đảng về chính trị. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả...
 
Thứ hai, đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, góp phần tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... 
 
Thứ ba, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, "lợi ích nhóm", nói không đi đôi với làm...
 
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất trong hệ thống chính trị, tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị…
 
Thứ năm, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. Tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng,... 
 
Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”. Thể chế hoá, cụ thể hoá các nguyên tắc về xây dựng đảng trên tất cả các mặt, các mối quan hệ. Đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,... để lựa chọn những người thực sự có đức, có tài giữ các vị trí lãnh đạo. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài; đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp,...
 
Thứ bảy, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng về công tác kiểm tra, giám sát. Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những hành vi dung túng, bao che cho khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên, công khai kết quả xử lý…
 
Thứ tám, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân…
 
Thứ chín, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài. Các cấp uỷ đảng, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị phải kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí... 
 
Thứ mười, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức... Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Coi trọng xây dựng văn hoá trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, trong hệ thống chính trị. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền... 
 
Những điểm mới nêu trong Văn kiện Đại hội XII phản ánh bước tiến về tư duy lý luận của Đảng và sẽ trở thành những định hướng chính trị quan trọng của mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong 5 năm tới. Việc làm rõ những vấn đề mới trong Văn kiện Đại hội XII sẽ giúp cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp trong tỉnh nắm vững một bước nội dung Văn kiện, phục vụ cho đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, từ đó góp phần thực hiện đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của tỉnh ta, sớm đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.
 
BAN BIÊN TẬP