Sinh ra và lớn lên ở vùng quê địa linh, nhân kiệt, với 79 tuổi đời, 61 năm tuổi đảng, từ mảnh đất Thành Nam, đồng chí Lê Đức Thọ...
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê địa linh, nhân kiệt, với 79 tuổi đời, 61 năm tuổi đảng, từ mảnh đất Thành Nam, đồng chí Lê Đức Thọ đã đi trọn con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí có bốn lần được Trung ương cử vào tăng cường chỉ đạo cách mạng miền nam. Trong đó, tháng 3/1975, đồng chí được Bộ Chính trị cử vào miền nam tham gia chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh đến ngày toàn thắng.
|
Cố vấn Lê Đức Thọ trong buổi đàm phán trực tiếp với cố vấn Mỹ về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 13/1/1973 tại Pháp |
Ngay trong những giờ khắc lịch sử, tại Tân Sơn Nhất, niềm vui lớn trở thành nguồn cảm hứng để ông viết nên những vần thơ “Trận thắng cuối cùng”. Bài thơ đề tặng các đồng chí Bộ Chính trị và Trung ương Đảng, được đăng trang trọng trên Báo Nhân Dân, số ra ngày 9/5/1975, tỏa sáng cốt cách, tinh thần lạc quan cách mạng:
“Quyết xây dựng lại tương lai đất nước
Cho Tổ quốc ta giàu đẹp gấp ngàn lần
Không còn những đói khổ gian truân
Tình ruột thịt Bắc Nam một nhà sum họp”
NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN TRUNG
Đồng chí Lê Đức Thọ, tên thật là Phan Đình Khải sinh ngày 10/10/1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là xã Nam Vân, TP Nam Định, tỉnh Nam Định. Tham gia hoạt động cách mạng khi mới 15 tuổi, tháng 10/1929, đồng chí được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng, làm Bí thư chi bộ học sinh và phụ trách công tác thanh niên học sinh. Đồng chí thuộc lớp đảng viên đầu tiên của Đảng, giàu nhiệt huyết và bản lĩnh cách mạng, góp phần quan trọng làm nên thành công vang dội của cuộc Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Từ nhỏ, được nuôi dưỡng trong cái nôi văn hóa, giàu truyền thống yêu nước, người thiếu niên Phan Đình Khải đã hòa mình vào các hoạt động của học sinh, tham gia biểu tình, bãi khóa, đấu tranh đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Trở thành đảng viên khi mới 18 tuổi, đồng chí được giao nhiều trọng trách trong xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nhiều lần bị giặc bắt, tra tấn, tù đày, từng bị kết án chung thân khổ sai tại Côn Đảo, đến các nhà tù Hà Nội, Hòa Bình, Sơn La… Đồng chí đã kiên quyết đấu tranh, chống án, buộc Tòa Thượng thẩm thực dân phải giảm án. Trong lao tù, dù bị địch tra tấn dã man, đồng chí luôn nêu cao khí tiết người cộng sản, kiên cường, bất khuất, dũng cảm đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của địch, biến nhà tù thành trường học cách mạng, nơi đào tạo cán bộ của Đảng. Với vai trò Bí thư chi bộ nhà tù, đồng chí thường xuyên tổ chức học tập chính trị, lý luận cách mạng, động viên bạn tù giữ vững tinh thần chiến đấu. Điều kiện khắc nghiệt đó đã tôi luyện người chiến sĩ cộng sản, hun đúc ý chí cách mạng, một lòng kiên trung với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân.
Năm 1944, hết hạn tù, đồng chí được Đảng phân công phụ trách công tác bảo đảm bí mật, an toàn cho An toàn khu (ATK). Tháng 8/1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang), đồng chí được cử vào Thường vụ Trung ương Đảng, trực tiếp tham gia cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, phát động và lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi. Khi nước nhà trở thành một nước độc lập, Đảng tin tưởng giao phụ trách công tác tổ chức Đảng. Trong những điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp, thù trong, giặc ngoài, cùng với Trung ương Đảng, đồng chí đã chỉ đạo tốt công tác bảo vệ chính quyền non trẻ, giữ vững và phát huy thắng lợi cách mạng, kịp thời chuẩn bị cho đất nước bước vào cuộc kháng chiến mới.
VỚI SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VÀ NGHĨA VỤ QUỐC TẾ CAO CẢ
Đồng chí Lê Đức Thọ là một trong những nhà lãnh đạo tiền bối có đóng góp lớn trong sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí có bốn lần được Trung ương cử vào tăng cường chỉ đạo cách mạng miền nam. Được giao trọng trách Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (năm 1949), Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục miền nam (1949 - 1954), đồng chí hiểu rõ vai trò công tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đồng chí Lê Đức Thọ đã cùng Thường vụ Xứ ủy chăm lo xây dựng kiện toàn bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo của Xứ ủy, củng cố và thành lập mới các ban chuyên môn, như: Ban Tổ chức, Dân vận, Công vận, Nông vận, Thanh vận, Tôn giáo, Hoa vận, Khơ-me vận… Các hoạt động chỉ đạo của Đảng có sự thống nhất, thông suốt, chặt chẽ, hiệu quả, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ phát triển, giành thắng lợi vẻ vang, xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc”.
Sau Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954, đồng chí Lê Đức Thọ được Đảng điều ra miền bắc công tác, bổ sung vào Bộ Chính trị, được Bộ Chính trị phân công làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương (năm 1956). Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Bộ Chính trị cử đồng chí trở lại miền nam làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Từ tháng 5/1968, đồng chí làm cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Paris, trực tiếp đàm phán với Mỹ về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Với bản lĩnh một nhà chính trị già dặn, bằng tài trí, sự khôn khéo, linh hoạt, sáng tạo trong từng phương án cụ thể, trong suốt 5 năm, đồng chí đã thực hiện phương châm kiên trì đấu tranh, giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng. Đồng chí là người góp phần to lớn vào việc buộc Hoa Kỳ phải ký kết Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trên cương vị là đại diện của Bộ Chính trị chỉ đạo cuộc Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân 1975 và tham gia chỉ đạo chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đồng chí đã góp phần quan trọng, cùng quân và dân cả nước thực hiện trọn vẹn mong ước của Bác Hồ, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Đối với sự nghiệp cách mạng quốc tế, đồng chí Lê Đức Thọ đã có nhiều đóng góp lớn lao trong việc ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng do chế độ Khơ-me Đỏ gây ra, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Đảng và Nhà nước ghi nhận, đồng chí Lê Đức Thọ là một trong những nhà lãnh đạo tiền bối, tiêu biểu, có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong đó, công tác tổ chức của Đảng là sự nghiệp gần suốt cả cuộc đời của đồng chí. Dù trong lao tù hay về hoạt động ở ATK, khi công tác ở miền nam, tham gia Bộ Chính trị, đồng chí đều được Đảng và Bác Hồ tín nhiệm giao phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Đồng chí đã góp phần phát triển lý luận về xây dựng Đảng, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, với cương vị Cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ ta, đồng chí đã thể hiện năng lực của một nhà ngoại giao tài ba, nhà thương thuyết có tầm nhìn chiến lược, khôn khéo, “vừa đánh vừa đàm”, kiên quyết về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Thắng lợi của cách mạng nước ta tại Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam là thắng lợi của trí tuệ, của chính nghĩa, thắng lợi của một dân tộc anh hùng, dưới sự lãnh đạo của Đảng chân chính.
Là người chiến sĩ cách mạng yêu thơ và làm thơ, ngay từ khi bước vào đời hoạt động cách mạng, bị giam cầm trong ngục tù đế quốc, qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, trong hành trình công tác từ bắc vào nam, lên biên giới, đồng chí Lê Đức Thọ đã sáng tác nhiều bài thơ, được tập hợp trong hai tập thơ: “Trên những nẻo đường” và “Nhật ký đường ra tiền tuyến”. Những sáng tác vừa giàu chất thực tế, vừa chứa chan tình cảm cách mạng, thiết tha yêu đời, yêu người. Những vần thơ ẩn chứa tình cảm, suy nghĩ sâu sắc và chân thành của một nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị tài năng, nhà ngoại giao bản lĩnh, một chiến sĩ cộng sản kiên trung từng vào sinh, ra tử trên khắp nẻo đường cách mạng. Trọn đời theo Đảng, đồng chí Lê Đức Thọ đã để lại tấm gương ngời sáng về lòng trung thành, tận tâm, tận lực phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân.
(Theo nhandan.com.vn)