Bernard Fall - người đầu tiên viết về nhân dân Việt Nam chiến đấu vì hòa bình

09:08, 06/08/2015

Tác giả Bernard Fall đã dành trọn một chương trong cuốn Street Without Joy tường thuật và luận bình về cuộc hành quân lớn tháng 7 năm 1953 trên doi đất hẹp gồm các ruộng lúa và đụn cát chạy song song bờ biển, cũng là song hành với quãng đường vừa nói, được người Pháp đặt tên là "Cuộc hành quân Camargue" (Opération Camargue).

[links()]Như có hẹn hò với định mệnh

Bernard Fall tại Đà Nẵng 1967
Bernard Fall tại Đà Nẵng 1967

Con đường ấy chạy dọc theo chiều dài vùng Quảng Trị quê tôi. Nó vốn không có tên. Giống như mọi con đường lớn nhỏ khác nó chỉ được phân loại và đánh số thứ tự: quốc lộ 1, 2…, tỉnh lộ 30, 40, vv. Những người lính da trắng và da đen trong đạo quân xâm lược nước ta sau năm 1945 đã đặt tên cho nó là “Con Đường Không Vui” (La Rue sans Joie), không vui cho quân đội Pháp đã đành, không vui cả cho quân đội Mỹ mấy năm sau (The Street Without Joy). Cái tên ấy lan truyền rộng rãi trên thế giới, trước hết trong giới học thuật và những ai quan tâm đến các cuộc chiến tranh Đông Dương, là công của một học giả - nhà báo nổi tiếng tên là Bernard Fall (Bernard B. Fall) qua công trình biên khảo công bố lần đầu ở Mỹ năm 1961, khi tác giả vào tuổi 35. Ông muốn minh chứng, qua khảo sát thực địa, thực tế lịch sử cùng kiến giải khoa học, La Rue sans Joie đã dẫn nước Pháp đến Điện Biên Phủ, và The Street Without Joy chắc chắn sẽ đưa nước Mỹ đến thảm bại, do đó phải ngừng ngay tức khắc cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.

Tác giả Bernard Fall đã dành trọn một chương trong cuốn Street Without Joy tường thuật và luận bình về cuộc hành quân lớn tháng 7 năm 1953 trên doi đất hẹp gồm các ruộng lúa và đụn cát chạy song song bờ biển, cũng là song hành với quãng đường vừa nói, được người Pháp đặt tên là “Cuộc hành quân Camargue” (Opération Camargue). Đây là một cuộc hành quân lớn, phối hợp lục, hải, không quân, do tướng Leblanc, Tư lệnh Quân đội Pháp tại Trung Việt Nam đích thân chỉ huy, nhằm bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 95 Bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), đơn vị chủ lực của Phân khu Bình Trị Thiên hồi bấy giờ. Bernard Fall phân tích: Chiến trường chính trong chiến tranh Việt Nam 1945-1954 là Bắc Bộ. Nam Bộ đóng vai trò quan trọng với bán đảo Cà Mau, rừng U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu miền Đông sát ngõ thành phố Sài Gòn. Tại miền Trung hình thành hai vùng căn cứ lớn của Việt Minh với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên về phía Nam, từ đây các trung đoàn quân chủ lực 108 và 803 là mối đe dọa sát sườn của quân Pháp ở Cao nguyên, và về phía Bắc là rẻo đất hẹp có chiều dài chừng 250 cây số và chiều sâu (từ biển đến núi) nhiều nơi không quá 10 cây số, từ thị xã Đồng Hới vào tới đèo Hải Vân. Tuy nhiên, chặng hiểm hóc và quyết định nhất tại rẻo đất hẹp này - tác giả viết - là một quãng đường tồi tệ trước kia vừa đủ rộng cho hai chiếc xe tải tránh nhau, nay qua nhiều lần bị băm vằm phá hoại và chưa bao giờ được bảo trì, đã trở thành một con đường mòn đủ cho xe bò, xe ngựa đi lại. “Quãng đường tồi tệ” ấy nối liền thị xã Quảng Trị với thị trấn Mỹ Chánh, địa đầu hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên: “Tên thông dụng của nó là Đường Cái quan (la Route mandarine). Tên chính thức của nó là Quốc lộ 1 (Nationale No.1) Nhưng tên thực tế của nó khác. Tất cả các đoàn xe quân sự của Pháp chạy trên quãng đường này đều chịu tổn thất nặng nề, sa vào các ổ phục kích do các chiến binh mặc áo quần đen của Trung đoàn 95 Bộ binh, một đơn vị ưu tú của QĐNDVN đã thâm nhập vào hậu tuyến của quân đội Pháp từ hơn hai năm nay, gây nên. Với cái tính hài hước cười ra nước mắt, binh lính Pháp đặt tên cho quãng đường ấy là Con Đường Không Vui ”.

Làng Hải Thượng nơi tôi chào đời nằm đúng vào “quãng đường tồi tệ” ấy.

Tháng 7/1953, vẫn theo tường thuật của Bernard Fall, Bộ Tổng Chỉ huy quân đội Pháp quyết định quét sạch vùng đất tồi tệ ấy bằng một cuộc hành quân lớn phối hợp bộ binh, pháo binh, thiết giáp, hải quân, tàu đổ bộ từ biển vào, xe lội nước, lính nhảy dù, có không quân yểm trợ... Bốn cánh bộ binh do bốn viên đại tá chỉ huy tấn công từ bốn hướng xuất quân cùng một lúc và thít chặt dần vòng vây. Hải quân áp sát ngoài khơi, từ Cửa Việt (Quảng Trị) đến Cửa Thuận (Thừa Thiên). Lính nhảy dù tập kết tại thành phố Đà Nẵng, sẵn sàng xung trận ngay tức khắc nếu bộ chỉ huy Pháp phát hiện bất kỳ dấu hiệu nhỏ nào cho thấy đối phương tìm cách thoát ra ngoài vòng vây. Lực lượng tung vào cuộc hành quân càn quét này gồm 10 trung đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn thiết giáp, 2 tiểu đoàn lính nhảy dù, 1 đoàn xe bọc thép, 4 liên đội pháo binh. Không quân cung cấp 32 máy bay vận tải, 22 máy bay ném bom, 6 máy bay trinh sát.

Hải quân góp một hải đoàn tuần tra biển với 12 chiến hạm trong đó có 3 tàu đổ bộ, kiểu L.S.T chở nhiều xe lội nước bọc thép tục danh là Cua và Cá Sấu. L.S.T, L.C.T., L.C.M... là tên các kiểu tàu đổ bộ khác nhau. “Cua”, ký hiệu chính thức là Chiến xa 29-C chuyên chở phụ tùng, súng đạn, xăng dầu, “Cá Sấu” là tàu đổ bộ lội nước chạy bánh xích, ký hiệu LVT-4, chở lính thủy đánh bộ cùng trang thiết bị, tất cả đều của Mỹ. Và tác giả, giáo sư chính trị quốc tế Trường Đại học Howard, Washington DC, Hoa Kỳ, từng là chiến sĩ Pháp chống phát xít từ tuổi 16, cựu chiến binh Sư đoàn Bắc Phi số 2 Quân Giải phóng của tướng De Gaulle trong Thế chiến thứ hai, Huân chương Giải phóng, nhận xét: “Lực lượng được quân đội Pháp tung vào cuộc hành quân càn quét này hoàn toàn không thua kém các cuộc hành quân đổ bộ của các nước Đồng Minh tại Thái Bình Dương hay tại Địa Trung Hải trong Chiến tranh thế giới thứ hai”. Với lực lượng hùng hậu như thế (Nhiều sĩ quan Pháp tham gia Cuộc hành quân Camargue tại Quảng Trị như Langlais, Piroth… sang năm sau (1954) sẽ tham gia và thất bại thảm hại, có người bỏ mạng, tại Điện Biên Phủ ), các sĩ quan tham mưu Pháp cầm chắc “Trung đoàn 95 QĐNDVN và các đơn vị du kích phụ trợ chuyến này rất ít có khả năng thoát khỏi tấm lưới bủa vây”.

Giờ G ngày N cuộc Hành quân Camargue được Bộ Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ấn định vào 5 giờ sáng ngày 28/7/1953. Vừa tảng sáng, các đơn vị Hải quân có căn cứ tại Đà Nẵng vốn đã lặng lẽ dàn binh ngoài khơi huyện Hải Lăng từ đêm hôm trước, ra lệnh cho các tàu đổ bộ ra quân. Ngòi bút nhà báo-học giả như cũng không kìm nén nổi ấn tượng trước quang cảnh 160 chiến xa đồng loạt rẽ sóng ào ạt tiến vào bờ: “Trên mặt nước biển vẫn còn đen xẫm màu chì (bởi bình minh chỉ vừa mới rạng), những chiếc tàu đổ quân đã vạch nên những làn sóng bạc, từ đỉnh các ăng ten cao ngất nghễu, nổi bật lên nền trời đang rạng dần phù hiệu các đơn vị tham chiến...”. Bốn cánh quân trên bộ được lệnh khởi động muộn hơn một ít, để khỏi làm kinh động đối phương. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các cánh quân Pháp chưa tập kết xong vào vị trí theo phương án tác chiến, bất thần súng đã nổ. Cuộc đọ sức đã bắt đầu tại làng Đơn Quế, hồi ấy thuộc xã Hải Châu (nay là Hải Quế) ven Tỉnh lộ 68. Theo tác giả, một đại đội lính bộ người Bắc Phi bất thần sa vào ổ phục kích. Súng bắn xối xả từ phía đối phương, nhiều lắm cũng đến ba chục tay súng là cùng. Tên lính Pháp bị quân Việt bắn hạ đầu tiên trong cuộc hành quân Camargue là Abd-El-Kader, lính lê dương người Maroc. Y bị một loạt đạn tiểu liên găm đúng vào ngực. “Một tay lính trẻ Việt Minh có lẽ tại thần kinh căng thẳng quá khi thấy đội quân Pháp ào ào xốc tới sát sườn, không đủ kiên nhẫn chờ cho cả đại đội Pháp sa gọn vào trận địa phục kích như kế hoạch định, đã bóp cò hơi sớm”. Theo phản xạ của những chiến binh thành thục chiến trường, nghe tiếng súng nổ lính lê dương nhất loạt bổ ngoài ra đất và lăn người xuống ruộng lúa hai bên đường, nhờ vậy nhiều tên thoát chết trong gang tấc.

Cho dù các thông báo quân đội Pháp phát cho báo chí cái nào cũng hết sức lạc quan, tướng Tổng chỉ huy Leblanc dày dạn chiến trường là người tỉnh táo. Ông biết, Trung đoàn 95 của QĐNDVN chỉ cho một vài đơn vị nhỏ phục kích chặn đánh, làm chậm cuộc hành quân của quân Pháp, còn đại bộ phận trung đoàn vẫn án binh bất động đâu đó, chờ đến tối sẽ thoát ra ngoài vòng vây. Vì vậy, không chờ đợi lâu hơn nữa, mới 2 giờ chiều ngày N, ngày đầu tiên ra quân, ông đã ra lệnh tung luôn lính nhảy dù ém tại Đà Nẵng vào cuộc chiến ngay tức khắc...                

(Còn nữa)
 

PHAN QUANG