Thơ chúc tết năm Đinh Dậu của hoàng đế Minh Mạng

09:01, 19/01/2017

Vua Minh Mạng nổi tiếng hay thơ, sinh thời vua đã làm nhiều bài thơ được tập hợp và in trong Ngự chế thi. Số lượng đến cả ngàn bài, trong số đó nhiều bài đã được khắc trên các di tích ở Huế như điện Thái Hòa, Đại Cung môn, Ngọ Môn, lăng Minh Mạng…

Vua Minh Mạng nổi tiếng hay thơ, sinh thời vua đã làm nhiều bài thơ được tập hợp và in trong Ngự chế thi. Số lượng đến cả ngàn bài, trong số đó nhiều bài đã được khắc trên các di tích ở Huế như điện Thái Hòa, Đại Cung môn, Ngọ Môn, lăng Minh Mạng…
 
Hình ảnh con gà trên Cửu đỉnh. Ảnh: N.H.K
Hình ảnh con gà trên Cửu đỉnh. Ảnh: N.H.K

Mặc dù chính sự bận rộn, nhưng vua vẫn dành thời gian rỗi để làm thơ, viết văn. Chính vua Minh Mạng đã từng bộc bạch về quan điểm sáng tác của mình: Thơ Trẫm làm không cần khéo léo, chỉ luôn miệng ngâm ra để nói chí mình thôi. Những bài ban cho ấy đều nói về việc kính Trời lo dân, mong tạnh cầu mưa, để các khanh biết ý Trẫm, không phải vụ lời văn hoa mà đua hay với văn sĩ đâu.
 
Dù chỉ là sáng tác trong khoảng 16 năm từ năm Đinh Hợi đến năm Canh Tý (1827 - 1841), nhưng toàn Ngự thi là một thi tập đồ sộ. 
 
Theo chúng tôi, vua Minh Mạng không đặt nặng vấn đề thơ văn phải chau chuốt, hoa mỹ, công phu. Ông cho rằng các văn bản hành chính thì có thể do từ thần soạn thay vua, nhưng thơ văn vốn có gốc ở tâm, phát ra ở chí, nếu để người khác thay thế mình thì đâu còn là chí của mình. Do đó, đọc thơ ông thấy giản dị, dễ hiểu, ít điển tích điển cố. Nhận xét về thơ của mình, vua Minh Mạng đã hỏi Phan Bá Đạt rằng: “Thơ của Trẫm so với thơ vua Lê Thánh Tông thế nào?”. Đạt tâu: “Thơ vua Thánh Tông phần nhiều chỉ cốt điêu luyện; còn như thơ của Thánh thượng làm, thì lấy ngay tình cảnh mà tả ra, cốt để phát minh đạo trị nước, lời lẽ thể cách lại thấy hùng hồn”. Vua nói: “Vua tôi rỗi rãi, cùng nhau làm thơ không những để cùng mua vui, mà có khi cũng để ngụ ý khuyên răn nữa, chứ chẳng phải lấy thơ để làm khí cụ chính trị đâu”
 
Trong hơn 3.000 bài thơ mà vua Minh Mạng sáng tác, chúng tôi thống kê và lựa chọn được 4 bài thơ có liên quan đến năm Dậu, đó là những bài thơ Tết Nguyên đán năm Đinh Dậu, hay tiết lập xuân năm Đinh Dậu viết thơ chúc mừng… Tất cả hiện lên trong thơ của vua thật sống động.
 
Nhân những năm Dậu, hình ảnh con gà không chỉ có trong thơ ngự chế mà ngay cả trên Cửu đỉnh (biểu tượng trường tồn của triều Nguyễn), cũng được vua Minh Mạng cho khắc với dáng đứng oai hùng. Điều đó chứng tỏ, vua rất coi trọng loài gia cầm này, xem nó là biểu tượng của đất nước nông nghiệp. 
 
Thiếp chúc mừng tiết lập xuân năm Đinh Dậu (ba bài)
I. Ngàn lần gặp được đất nước mở mang phát triển, 
Năm Dậu nuôi dưỡng muôn vật. 
Nền văn giáo được chấn hưng binh đao chấm dứt, 
Lại được rượu uống say trong cảnh đất nước thái bình.
 
II. Xuân đến phúc lớn được ban đến tám cõi, 
Thích hợp để bỏ năm cũ khắp nơi đón năm mới.
Dự báo trộm cướp ngừng lại dân chúng yên vui, 
Nhờ trời cao phù giúp khắp nơi đều hưởng phúc hưởng thọ.
 
III. Sắc xanh tô điểm khắp đường lối trong cung, 
Âm vận vui vẻ nhạc tấu sáu vần hòa hợp.
Đường hẹp hoa chào dập dìu bươm bướm bay,
Xuân đến muôn vật đều biết đến cái đẹp.
(Ngự chế thi tứ tập, quyển 10)
 
Qua ba bài thơ trên, có thể nhận thấy tâm trạng của nhà vua khi đất nước được mở mang phát triển, giáo hóa được chấn hưng, cơ đồ được thái bình. Bên cạnh đó là tâm trạng đón năm mới hào hứng khắp nơi, dân chúng yên vui. 
 
Ngày đầu năm Tết Đinh Dậu
 
Gió thuận năm được mùa, 
Ánh sáng tốt lành chiếu rọi ngày đầu năm mới.
Đất nước thái bình muôn dân vui vẻ, 
Nắng ấm thuận hòa muôn vật như mới.
Rủ áo chăm sóc bách tính,
Trang nghiêm đối đãi quần thần.
Hòa mục chức vua thầy, 
Tài giỏi thay có người phụ tá thân cận.
Mũ áo chỉnh tề đông đúc, 
Đao kiếm ngọc bội ngay ngắn rực rỡ.
Tích đức hạnh để phụng sự từ mẫu, 
Thi ân tuân theo phép của trời.
Xa gần được mở mang ân trạch,
Trong ngoài cùng vui xuân.
Lại mong trời cao nuôi dưỡng, 
Để năm nào cũng được ban sự giúp đỡ đều đều.
 
Nếu như ở ba bài thơ trên là tâm trạng của vua Minh Mạng trong ngày năm mới, thì ở bài thơ này, với mong muốn hàng năm đều được mùa, mưa thuận gió hòa, bách tính yên vui. Nơi triều chính có người giỏi phụ tá, vua tôi hòa mục, noi theo phép trời, ban ân huệ khắp nơi để cho mọi người cùng vui đón mùa xuân. Bên cạnh đó là những vần thơ ca ngợi cảnh xuân tươi đẹp, sắc đẹp của loài hoa qua cảm nhận của một vị hoàng đế rung động trước cảnh sắc thiên nhiên. Sự rung động tâm hồn trước khóm hoa đẹp.
 
 Sắc xanh tô điểm khắp đường lối 
trong cung, 
Âm vận vui vẻ nhạc tấu sáu vần hòa hợp.
Đường hẹp hoa chào bươm bướm bay, 
Xuân đến mới biết hết cái đẹp của 
muôn vật.
(Đinh Dậu lập xuân thiếp tử)
 
Mặc dù người xưa nói “thi ngôn chí” nhưng có lẽ đối với vua Minh Mạng thơ chính là để răn mình, thơ là để kính trời, ái dân, xem việc tạnh, đoán việc mưa, xem xét khắp nơi để hiểu tình hình đất nước, đó cũng là quan điểm làm thơ xuyên suốt trong thi tập của hoàng đế Minh Mạng.
 
Không chỉ làm thơ để ngâm vịnh lúc nhàn rỗi như nhiều văn sĩ đương thời, vua Minh Mạng còn lấy gánh nặng của đất nước, của nhân dân làm trọng. Những tâm tư tình cảm của vua đối với cuộc sống của bách tính, là sự vui mừng khi nền giáo dục được chấn hưng, đất nước không có trộm cướp, nhân dân yên ổn làm ăn. 
 
Đất nước thái bình muôn dân vui vẻ, 
Nắng ấm thuận hòa muôn vật như mới.
(Đinh Dậu Nguyên đán)
 
Mùa xuân là mùa của những thi hứng bất tận của biết bao tao nhân mặc khách, vua Minh Mạng cũng không ngoại lệ. Chứng kiến sự đổi thay của muôn vật, sự vui hòa của bách tính trong lòng vua cảm xúc dâng trào. Thi hứng cũng theo đó mà tuôn chảy theo dòng thời gian. Đọc thơ ngự chế của vua Minh Mạng, người đọc cảm nhận được nỗi lòng của người đứng đầu Nhà nước đối với thiên nhiên xung quanh, với công việc triều chính, hay với những lo lắng bộn bề được thể hiện trong những vần thơ.
 
Theo lời chú thích của nhà vua trong bài Đinh Dậu nguyên đán: “Ngày đầu năm mới mà có nắng đẹp, gió bấc, năm ấy sẽ rất tốt, lại tạnh ráo ôn hòa, giúp muôn vật sinh nở. Đó là điềm lành bậc nhất vậy”. 
 
Đó cũng là mong muốn của biết bao người khi tết đến xuân về, tống cựu nghênh tân, đọc thơ xưa để lòng được yên tĩnh, để cảm nhận quá khứ với hiện tại và để không phụ những tấm lòng đã gửi vào thiên cổ.
 
NGUYỄN HUY KHUYẾN