Bao trăm năm qua, kể từ khi có lịch sử thành văn, câu hỏi về cây gì quí thiêng nhất với người sơn nguyên cứ đeo bám tôi, khi mà Tây Nguyên là xứ rừng, trung tâm tiêu biểu của nền "Văn minh rừng".
Bao trăm năm qua, kể từ khi có lịch sử thành văn, câu hỏi về cây gì quí thiêng nhất với người sơn nguyên cứ đeo bám tôi, khi mà Tây Nguyên là xứ rừng, trung tâm tiêu biểu của nền “Văn minh rừng”. Lật tung lịch sử và mọi trước tác đã ra đời, không có ai đề cập, soạn viết về điều này, nghĩa là nó bị bỏ lửng. Chỉ còn có cách tự mình đi trả lời câu hỏi đó cho chính mình thôi. Hành trình một mình rỗi hơi lạc lõng đó diễn ra không cưỡng được…
|
Tác giả ôm lấy một loài cây cổ thụ trong rừng |
Rừng xanh xô tôi vào cuộc hun hút giữa những sinh vật di động và sinh vật bất động, thú và cây. Bao nhiêu loài thú đã nhìn thấy, duy chỉ có những giống loài được xem quí hiếm thì đúng là biền biệt tăm dạng. Thì phải đi sâu và xa hơn thôi, mới may ra diện kiến.
Ngơ ngác
Đi trong rừng nguyên sinh nghe được sự mát lành của đất đai. Đi giữa rừng nguyên sinh, nghe dậy mùi thảo mộc. Êm ả đó, nhưng mà cứ hồi hộp. Thứ hồi hộp vô định, rất cụ thể mà rất không cụ thể, vu vơ. Đi trong nguyên sinh nó không có chỗ cho buồn, không có thời gian để buồn. Giữa nguyên sinh, cảm nhận được sự nhỏ bé lẻ loi của mình. Dưới nguyên sinh tôi nhận ra sự hữu hạn ở bất cứ động vật nào, trong đó có động vật gọi là “người” này của tôi. Ở trong hoang dã giống loài tôi mới biết sợ các loài khác, kể cả thực vật. Tôi nghe được sự rộn rã của muôn loài. |
Đó là những ngày đi kiếm con B’nul - người rừng, tiếng K’Ho - ở trên dãy núi Bra Yang ở cao nguyên Di Linh. Rồi tìm con Bos Sauveli - bò xám - ở rừng Chư Mo Ray ở miền hạ Lào nơi tỉnh Kon Tum. Phiêu liêu tìm cọp ở hệ rừng cây bụi ở Chư Prông phía Tây Gia Lai. Tìm loài chim công nơi những cù lao độn giữa cỏ dại và cát trắng thanh lặng trong rừng nhiệt đới. Tìm con voọc Chà Vá ở vùng rừng chuyển tiếp giữa cao nguyên và đồng bằng giữa Phú Yên và Đắk Lắk. Tìm con tê giác Java một sừng ở trung nguồn sông Đạ Đơng. Tìm sự đa dạng sinh học trên dãy Tà Đùng giữa Lâm Đồng và Đắk Nông. Và cả tìm những bờ bãi giữa rừng sâu tụ tập một “phân loài” của loài người ngày nay là dân giang hồ đào đãi vàng hoặc đá quí ở Đam Rông, Đắk Song... B’nul, Bos Sauveli, tê giác Java một sừng... đâu không thấy, chỉ thấy muốt mùa cây, toàn cây, dưới đại ngàn lặng ngắt. Cái cây nó khác con thú ở sự di chuyển và không di chuyển được mà, nhưng nhìn những tàng cây nguyên sinh to dày, cứ như hết thảy chúng giống nhau, cây nào cũng như cây nào - bất lực cả với thực vật.
Những cuộc về với rừng dài ngắn đó, chuyển thành cuộc trao đổi chất tự nhiên của tôi với nguyên sinh. Chợt, nhiều lúc thế này tôi nghĩ đến những tổ người, cộng đồng sơn nguyên ngây thơ, trong sáng, bé bỏng, có khi lại là oai hùng sống chung bao đời với rừng núi, coi rừng là quê nhà quanh đây. Họ lang thang trên rừng tự nhiên, chứ không như tôi chủ đích đi khám phá. Tình yêu rừng của họ nó thẳm ngút, điệp trùng chứ không phải le lói, tỵ nạn như tôi. Đại ngàn vô tận đấy, thế mà với họ, cái gì trong đó mà chẳng có tên, chẳng thuộc, thuộc rừng như tôi nhận ra số nhà ở phố. Tôi biết nó thân thuộc như bản năng thích ngủ trong căn nhà dài, nhà sàn, thảo mộc đẫm hòa mọi thứ xung quanh, từ dưới chân cầu thang đến bức vách, vật dụng nơi gian bếp giữa nhà, và chỗ ăn, ngủ, ân ái. Thì thôi tôi chỉ còn cách là phải nhờ đến họ, đi cùng họ, người bản địa sơn nguyên, để họ khai minh, chỉ cho tôi về cây cối xung quanh mà với họ là “Nhà” còn với tôi là “Rừng” này. Thì có sao đâu, có đoàn nghiên cứu lâm sinh nào trên đất nước này mà những chuyến vào rừng “nghiên cứu” ấy không có người bản địa đi cùng.
|
Một cây K’tơng cổ thụ |
Hơi ấm
Cộng đồng của Y Vang mùa nào cũng lên rừng hái M’nga (tiếng phổ thông gọi phong lan rừng) về bán kiếm cơm áo. Loài cỏ trên cây bỗng cũng trở thành hàng hóa được - người đồng bằng, thành thị thích ngắm hoa phong lan, và bán buôn nó. Những ngày trước Vang hái M’nga ở rừng Buôn Ja Vầm. Sống bằng nghề hái M’nga, Vang cứ đi thế, từ buôn Dtun của người Ê Đê, xã Ea Bur vào cánh rừng xa hơn như ở vùng Buôn Đôn này mới có nhiều M’nga. Để có M’nga Vang trèo lên trên cây cổ thụ thế này để gỡ, vì nó là loài (thực vật) nương sinh. Vang bảo, không chỉ nơi thân cây, vỏ cây, gốc cây, như mọi người bản địa, trong rừng, nhìn lá cây là anh biết thân cây gì đang thẳng lên trời kia. Cái lá cây dù tươi hay khô nó đều chứa “thông tin” thảo mộc. Vì mỗi loài cây có hình thái lá với cấu trúc, độ dày mỏng, gân thớ, mượt, sần riêng biệt. Với tôi, là lá hay thân ở bất cứ cây gì cũng chỉ là một “mớ” xenlulô cấu tạo thành màng lưới bao bọc tế bào thực vật, hoặc là một “đống” tinh bột mà tôi học trong nhà trường hồi xa lắc - nghĩa là tôi chỉ biết khái niệm, lý thuyết cấu trúc vật chất, mù mờ ở phần xác phàm của thực vật, mà không biết gì về phần thực tiễn lẫn linh hồn. Phần hồn nó mới nói được cái cao cả, thực chất của thảo mộc. Hiểu được nó mới hiểu được người Tây Nguyên với tư cách con dân rừng núi, với mối quan hệ của họ với bao la các loài thực vật giữa đại ngàn kia - rằng không phải mọi cây đều như nhau.
Và Y Vang chỉ ra cây Ana Kpẽh (tiếng phổ thông gọi chệch thành Căm xe), K’chih (tiếng phổ thông gọi chệch là Cà chít) là thứ cây ấm áp và gần gũi nhất với cộng đồng sơn nguyên của anh. Bao giờ làm nhà dài, nhà sàn cũng tìm thứ cây này về làm. Gỗ Ana K’pẽh, Ana K’chih không ngấm nước, chịu được ẩm lẫn nắng nóng, màu gỗ đẹp, không mối mọt - là bền. Sàn nhà thì làm bằng ván Ana K’lông, vì nó thơm, nhẹ, và vân đẹp mềm dịu. Nếu không có Ana K’pẽh, Ana K’chih, thì chọn Ana Asan (tiếng phổ thông gọi là cây Hương) thay, để làm khung sườn, cột nhà. Quá nhiều cây hiện ra trong sử thi của họ - Khan, Ót N’rông đó, lúc còn trong xã hội bộ lạc, tiếng của họ chưa ghi thành ký hiệu (chữ), Nhưng trong lòng họ, kéo dài cho đến ngày nay, ra ngoài cuộc đời thật này, thì Ana K’pẽh, Ana K’chih là cây rừng thân, vật thân, như máu thịt xuyên suốt. Và chiếc cầu thang nhà dài, lối lên nhà duy nhất, với đôi nhũ hoa của người phụ nữ - biểu tượng của xã hội mẫu hệ, ngay giữa thế kỷ XXI này vẫn sừng sững - làm bằng Ana K’chih. Đến những vườn tiêu kia, các làng người ở Tây Nguyên còn lấy Ana K’chih làm giá thể cho tiêu leo. Sự thật vật chất và tình cảm máu thịt với Ana K’pẽh, Ana K’chih, Ana K’lông tràn đầy trong căn nhà của họ, sinh hoạt của họ, vật dụng của họ. Ngay như H’Len bạn tôi, ở buôn Ako Dhông trên Buôn Ma Thuột, mới đây cất một căn nhà dài - dù đã ở trong một biệt thự kiểu Pháp mới xây - cũng tìm mua cho được Ana K’pẽh, Ana K’chih từ bên Cambodia về để làm kìa.
Bởi họ biết cây gì phù hợp với công dụng nào, và cái tình đi theo công dụng, sinh sôi, qua trao đổi chất như thực vật trong sinh trưởng.
Như vật thân khác, con thuyền độc mộc, cũng chỉ lấy cây Dhi Grier (tiếng phổ thông gọi cây Sao) để làm. Nhà nào cần một cái thuyền thì đi chặt đúng một cây Dhi Grier về làm - đục thành thuyền.
Không riêng sắc dân Ê Đê, mà sắc dân J’rai, Banah, Sê Đăng, Rơ Ngao, K’Ho, M’Nông cũng thế, vẫn chỉ gắn bó máu thịt với cây Cà chít, Căm xe, chỉ có tên của nó được gọi tên khác đi thôi - vì khác hệ ngôn ngữ, giữa Nam Đảo và Môn-Khơme.
Phản xạ của họ trước rừng, là chỉ lẩy, khai thác vài loại cây ấy mang về phục vụ không gian sống thôi, chứ không phải thấy cây gì to cũng đốn hạ, chặt hàng loạt, hay khai thác trắng. Vì nên nhớ, đến thập niên 1990 của thế kỷ trước, trong cộng đồng các dân tộc bản địa Tây Nguyên vẫn không hề coi gỗ rừng là “hàng hóa’, không có nghề xẻ gỗ trên rừng và buôn bán gỗ. Và sống dưới ngọn núi, dải rừng, thung lũng nào đó là ở mãi quanh đấy, hoàn toàn không có chuyện “du canh du cư” như người ta hay gán oan nghiệt và đau đớn cho họ (mà họ vẫn không hề lên tiếng), vì đặc điểm của họ là nhạy cảm, nặng tình và yếu đuối, không thể xa rời rừng quê, núi quê, không chịu được không gian lạ. Nên những thứ cây mà dân nhập cư chúng tôi cho là cao giá, “gỗ quí”, như Cẩm lai, Lim, Gõ, Pơmu, Huỳnh đàn, Dỗi, Bằng lăng… họ cũng không để ý, dù biết hết chúng ở chỗ nào trên rừng kia, tên cây, hình thù thân, lá, đặc điểm sinh trưởng. Ngay thứ cây có giá trị bạc tiền cao là K’Năng Jieng (tiếng phổ thông gọi là Trầm hương) họ cũng không hề đụng đến, mà toàn dân dưới xuôi và phương xa ngược núi lùng sục, tung hoành khai thác, kể từ thời người Chămpa, Pháp, và chúng ta tiếp tục từ đấy về sau. Họ không có lòng tham với rừng, không vơ vét, tận thu hết sản vật trong rừng kia, mà chỉ dùng những gì mình gần gũi, yêu, và dùng đủ cần, như lấy cây về làm xong căn nhà thôi, mà không dự trữ, và trục lợi (bán), hay lẩy từ rừng ra đủ một mảnh rẫy để trồng đủ lương thực để ăn cho đến mùa hoa lợi mới. Hai ba mảnh rẫy nhỏ xoay quần để làm trong chu kỳ ba năm luân phiên, để đất được nghỉ ngơi, tái tạo dưỡng chất, tốt cây trồng.
Thiêng: là “ánh sáng”
Bình thường, giản dị thì như Ana Bơlơng. Ana Bơlơng (Pơlang - tiếng K’ho) nó là biểu hiện của niềm vui. Vì nó “vui”, nên thường trồng nó trong làng, đốn nó về dựng làm cây nêu khi có hội hè. Và cũng vì nó vui, nên trồng nó ở khu nhà mồ để tiễn người thân “ra đi” thật nhẹ êm.
|
Cô gái Ê Đê bên chiếc cầu thang nhà dài |
Dĩ nhiên với người sơn nguyên, rừng đã là thiêng, toàn bộ, ở đó có Yàng (thần). Nhưng trong cái thiêng bao trùm bao giờ cũng có cái thiêng cụ thể. Vậy cây gì là thiêng nhất với cộng đồng sơn nguyên? Ana Truol (tiếng phổ thông gọi Bằng lăng), Ana K’lông (Dâu), Ana Jrê (Si), Ana H’ra (Sung), Ana K’hô (tiếng phổ thông không có), Ana Tơnir, Ana K’nang, Ana Êrăng, Ana Sam Drau, Ana Bgir, hay Dhi Kơ dăm, Dhi Mơpih...? Suốt hai lăm năm qua, khi gặp bất cứ người bản địa sơn nguyên nào, tôi vẫn chỉ hỏi, rằng cây gì quí thiêng nhất đó. Vang lẫn H’ Điệp, Y Khuyên, H’Di, Y Blai Niê, Y Phôn... ở vùng Ê Đê, lẫn Y Cư, Y Nghuông, Y Bhun... ở vùng M’Nông, rồi Ka Jarai, K’nhul... ở vùng Cill, Ka Èo, Ka Nói, K’Boi ở vùng K’Ho, Mạ... đều nói ngay là Ana/Dhi (nhóm Môn-Khơme) (cây) K’tơng. Họ rằng, cây thiêng là cây tụ nhiều linh hồn, tinh túy rừng núi, chứa những điều tốt lành của sơn nguyên - sức mạnh huyền bí. K’tơng nó tốt bụng và thiêng vì nó che chở nguồn nước (Ko Ea), mà nguồn nước là khởi đầu sự sống. Chỗ nào có K’tơng là chỗ đó có mát lành, cộng đồng sống được. Nên ở K’nang Ea (rỉ ra giọt nước - tạm hiểu như Bến nước) luôn có mặt nó. Người sơn nguyên luôn cúng Bến nước, trong đó có Ana K’tơng. Cây thiêng tiếp nữa với họ là Ana M’nút. Cây này thiêng cũng vì nó tạo ra được Ko Ea, và giữ được Ko Ea. Phát rẫy thấy cây M’nút thì chừa ra. Bến nước có cây này hiện diện thì không được tắm vào 12 giờ trưa, và cần gì cũng không được bước xuống đó lúc 12 giờ đêm. Giờ cây nghỉ ngơi, tái tạo “sức khỏe”. Và cây thiêng dạng này nữa là Ana K’djar (Dhi/Chi Jri/Jrê - tiếng M’Nông/Mạ). Ana K’djar là cây đa theo cách gọi của người Kinh tôi. Ngay cả Y Phôn - người viết những bài hát sâu nặng nhất về cây cỏ, núi đồi Tây Nguyên cũng từng bảo tôi Ana K’djar là điểm tựa, che chở cho làng, là cây của muôn cây. Làng nào dựng lập ở chỗ thiếu nó, chơi vơi lắm. Bây giờ đã có y học hiện đại, đau ốm đều đưa đi bệnh viện, nhưng cùng lúc cũng ra cúng nó mới yên tâm, vì cuộc sống con người do trời đất nặn ra, mà Ana K’djar nó hiện thân cho cao thiêng trời đất. Nên người M’Nông - sắc dân bản địa lâu đời nhất miền thượng này, mới có câu: “Hên sit bah ri ta Jri bar jâng” (Đi xa về ghé gốc cây đa). Cả ba cây trên con người khi đến gần nó đều không được nói bậy chứ đừng nói chơi trèo, hay đụng chạm cái gì vào. Ngay con thú cho thịt ngon nhất, nhưng đã đậu hoặc đứng dưới bóng của nó thì con người cũng không được săn. Con thú đó đang được Yàng che chở, lúc đó nó như con người rồi. K’tơng, M’nút, K’djar mà xuất hiện ở nghĩa địa thì càng hóa thiêng hơn. Dù có tục bỏ mả/ma nghĩa là quên luôn xác thân lẫn linh hồn người chết, nhưng những cây này thì vẫn cứ phải nhớ đến. Nó được quyền tồn tại miên viễn, cứ đứng đó, sống chung với con người; nó chỉ tự đổ, vì nguyên nhân gì đó từ thiên nhiên, chứ con người không được làm nó đổ. Tôi lật sử thi ra xem, thì nó là thứ cây được nhắc đến nhiều nhất trong Khan, Ót Nrông Tây Nguyên.
Nhưng cái cây cao thiêng bao trùm chứa cả điều thiện lành lẫn xấu ác lại là cây T’lôn. Nó bí ẩn, hơn cả những loài thú tinh khôn và hiếm nhất. Vì hiếm người nhìn thấy được nó. Có người sinh ra đến lúc tàn đời mà đi rừng vẫn chưa từng gặp. Đại ngàn bao la, nhưng chỗ nào có cây T’lôn là thông tin này truyền đi khắp bon, buôn, plei này qua bon, buôn, plei kia, từ nơi cư trú của người M’Nông sang nơi của người Ê Đê, J’rai, Ba Nah, Sê Đăng... Y Blai Nie từng nghe ở vùng rừng xa cách trở, giữa Yang Sơn (huyện Lak, Dak Lak) với vùng Krông Ana còn một cây. Nếu ai gặp thấy là gặp thấy tình cờ, chứ không được rủ nhau đi nhìn. Và cây thiêng cao to khổng lồ không gần gũi với con người, chứa cả xấu tốt - tức chứa cả ma quỉ lẫn thánh thần - nữa là Ana Săr Chinpí. Cây này tán rộng hàng chục người nối tay chưa hết tán, và gốc có khi cả chục thước. Những người trẻ giờ gần như không còn hay biết đến nó nữa. Những người lớn tuổi thì từng nghe nói, có người thấy được nó ở tận rừng… Cambodia. Con dân núi rừng mà, nhiều khi đi rừng là cứ lê thê theo màu xanh thiên nhiên, xúc cảm, ý niệm lằn ranh hành chính không có hoặc nhòe đi. Cây này gỗ có màu đỏ đẹp nồng nàn nhất trong các loài cây thịt thân màu đỏ, nhưng không ai dám đụng vào. Bởi hình dáng nó lạ quá. Nó lạ thì kiêng nể vậy. Đụng vô là “chết”, không tai vạ này cũng tai vạ khác, vì có Yàng hoặc ma quỉ trong đó. Vậy là cây ma quỉ nhiều cũng tránh, mà thần thánh nhiều cũng kiêng dè. Kiêng dè là sống dưới nó, còn tránh là sợ hãi, cách ly. Nhờ biết “sợ” mà thương yêu rừng núi, nên rừng còn. Hết ngưỡng vọng và hết “sợ” rừng ở chỗ nào là chỗ đó hết rừng.
“Di sản” tinh thần
Nhìn lại mà xem thế có đúng không nào.
Vì vậy mà hạ một cái cây về làm nhà cũng cúng, cây để đẽo tượng cho người chết ở nhà mồ cũng vậy, và cây để làm cây nêu cho lễ hội làng cũng thế. Đều làm lễ “xin” trời đất cho phép - cúng, cúng thần cây, thần rừng. Họ sống nương tựa, chan hòa, và có đạo với thiên nhiên. Ấy là hành thiện tránh ác - Đạo Trời. Ý thức “Mẫu thượng ngàn” (Mẹ rừng đầu non) là thật, đạo Mẫu là có thật, dù họ không cần đưa thành khái niệm, và không thuyết giảng, và không biết UNESCO vừa phong Đạo Mẫu, cái tục Thờ Mẫu với thiên nhiên là trung tâm của người Kinh là di sản văn hóa đại diện của nhân loại. UNESCO hẳn là không cổ hủ, lạc thời khi vinh danh Đạo Mẫu của người Kinh tôi. Dù người Kinh tôi có chân thành với thiên nhiên, ứng xử có xuyên suốt với Mẹ thiên nhiên không thì họ - người sơn nguyên - không rõ. Họ chỉ cần tự mình tôn trọng thiên nhiên, cho chính mình, biết ơn và thành tâm trước rừng - “Kòn vơnus song dơpú ngan” (Con người là trung thực - thành ngữ, tiếng K’Ho) mà. Riêng với dân nhập cư đến miền thượng thì tôi có biết, khỏi nói rồi, họ có chiêm bái hay kiêng sợ gì đâu; coi mọi cây, con đều là “con tép”, là của cải, bạc tiền giữa trời mà không có khóa. Nên chỉ khi lũ lụt đổ xuống, thiên tai ập về xuôi, họ chơi vơi, họ nhìn nhau, họ kêu ca, họ than khóc, và họ chửi rủa vào những nguyên do. Vậy thì đâu nhân bản hơn, đâu nhìn xa hơn.
Có một chiều của văn minh mà loài người đang (cho) nghĩ mình tiên tiến nhưng học hoài không tới cõi đó, hoặc muốn quay về, là bản thể thiên nhiên. Ứng xử với thiên nhiên tử tế bỗng một ngày trở thành thứ xa xỉ, khó nhất.
Những năm gần đây, nơi kia chỗ nọ ở dưới xuôi, sắc tộc khác, người ta bỗng đưa những cây nguyên sinh lẻ loi còn trơ trọi giữa trùng trùng thành “Cây di sản”.
Miền thượng Tây Nguyên đã hình thành hàng trăm triệu năm, con người xuất hiện ở Tây Nguyên cũng hàng vạn năm rồi, và nó là xứ đại ngàn, nhưng đây là lần đầu tiên chúng ta đề cập đến đề tài này - họ trong mối liên hệ với thực vật. Tôi cũng không muốn đo chiều dài của văn minh trong các xứ sở, trong các cộng đồng người xa gần, trong các thời đại của nhân loại. Tôi chỉ biết cái tình của người sơn nguyên với Mẫu Thượng Ngàn nó lê thê, lê thê từ trong sử thi ra bên ngoài, là từ xa xưa tới buổi hiện đại đây. Nó lắng, nó tĩnh tại, nó bàng bạc, nó minh tri ngay giữa dòng đời hối hả, xô bồ này. Nó hiện sinh và thực tiễn chứ không mơ màng như tôi với những cuộc về rừng ngơ ngác...
Bút ký: NGUYỄN HÀNG TÌNH