Vấn đề dân số và phát triển

06:12, 25/12/2019

Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới với mục tiêu giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bổ, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. 

Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới với mục tiêu giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bổ, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. 
 
Nụ cười trẻ thơ. Ảnh: P.Nhân
Nụ cười trẻ thơ. Ảnh: P.Nhân
 
Mục tiêu công tác dân số giai đoạn đến năm 2030 là duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bổ dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.
 
Theo công bố Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Việt Nam có dân số 96.208.984 người, trong đó nam chiếm 49,8% và nữ 50,2%; là quốc gia đông dân thứ 15 trên thứ giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tăng mạnh, hầu hết trẻ em trong độ tuổi học phổ thông đang được đến trường. Những nỗ lực của Việt Nam về tăng cường bình đẳng giới cũng đã đạt một số thành công nhất định. 
 
Trải qua 10 năm (2009 - 2019), quy mô dân số nước ta tăng với tốc độ chậm hơn so với giai đoạn 10 năm trước, tỉ lệ tăng dân số đã được kiểm soát. Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương đã tác động đến quá trình phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động. Mục tiêu “quy mô dân số đến năm 2020 không vượt quá 98 triệu người” như đã nêu trong Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 là hoàn toàn có thể đạt được. Tuy nhiên, cần nhiều nỗ lực và giải pháp hơn nữa trong tiến trình đô thị hóa để phấn đấu đạt được mục tiêu “tỉ lệ dân số đô thị đạt trên 45% vào năm 2030” theo Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới.
 
Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người. Giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn. Bảo vệ và phát triển các dân tộc có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc có rất ít người. Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỉ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%. 
 
Tuổi trẻ ngành Y tế đạp xe vì sức khỏe Việt Nam tại Quảng trường Lâm viên Đà Lạt. Ảnh: A.Nhiên
Tuổi trẻ ngành Y tế đạp xe vì sức khỏe Việt Nam tại Quảng trường Lâm viên Đà Lạt. Ảnh: A.Nhiên
 
Đến năm 2030, tỉ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe đạt tối đa 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ BHYT, được quản lý sức khỏe, khám chữa bệnh, chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung. Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm và nữ 157,5 cm. Chỉ số phát triển con người nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Tỉ lệ dân số đô thị đạt trên 45%. Bố trí sắp xếp dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc.
 
Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2019, Lâm Đồng có 1.296.906 người, tập trung ở thành thị 508.755 người, nông thôn 788.151 người. Với tổng số hộ 358.753, trong đó phân bố vùng thành thị 148.790 hộ và nông thôn 209.963 hộ. 
 
Dự án Dân số và phát triển thuộc Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số tại Lâm Đồng giai đoạn 2016 - 2019 triển khai với một số kết quả sau: Hoạt động Dân số - KHHGĐ cơ bản đạt được các chỉ tiêu theo kế hoạch. Cụ thể: mức giảm sinh năm 2016 là 1,34‰, ước đến năm 2020 đạt 0,51‰. Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên năm 2016 là 11,49%, ước năm 2020 đạt 10,50%. Tỷ số giới tính khi sinh giai đoạn 2016-2020 là 110,0 trẻ nam/100 trẻ nữ. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2016 là 13,99‰, ước thực hiện đến năm 2020 là 10,29%. Sàng lọc trước sinh cho bà mẹ mang thai năm 2016 là 7,6%, ước năm 2020 đạt 43,0%; sàng lọc sơ sinh năm 2016 là 11,77%, ước năm 2020 đạt 50,0%.
 
Hoạt động phục hồi chức năng cho người khuyết tật tại cộng đồng được triển khai trong toàn tỉnh, có 1.346 cộng tác viên tham gia hoạt động phục hồi chức năng cho người khuyết tật dựa vào cộng đồng. Số người khuyết tật được quản lý đạt tỷ lệ 100%; tỉ lệ người khuyết tật được khám sức khỏe định kỳ 1 lần/năm đạt 100%.
 
Quan tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi được thực hiện đồng bộ các nội dung như: tư vấn, khám sàng lọc, chăm sóc và phát hiện bệnh sớm cho người cao tuổi, cải thiện tình trạng sức khỏe cho người cao tuổi. Tổng số người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên của toàn tỉnh là 141.258 người, chiếm tỷ lệ 10,75% dân số; tổng số hội viên người cao tuổi là 81.027 hội viên, chiếm tỉ lệ 83% người cao tuổi.
 
Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản được triển khai thường xuyên, liên tục; tổng số phụ nữ đẻ được quản lý thai: 22.302, chiếm tỷ lệ 97,8%; số phụ nữ đẻ được cán bộ y tế đỡ là 99,5%; số bà mẹ đẻ được khám thai ≥ 3 lần trong thai kỳ là 95,6 %; số bà mẹ được thăm khám trong vòng 42 ngày tại nhà sau đẻ là 83,84%.
 
Cải thiện tình trạng dinh dưỡng trẻ em, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi thể nhẹ cân năm 2016 là 13,1%, đến nay còn 11,9%; suy dinh dưỡng thể thấp còi năm 2016 là 20,5%, đến nay còn 19,6%; số trẻ đẻ cân nặng dưới 2.500 gr năm 2016 là 4,7%, đến nay còn 4,5%. Trẻ từ 6 - 36 tháng uống Vitamin A hàng năm đạt 97,6%; số bà mẹ sau sinh được uống Vitamin A đạt 97%. Số trẻ tử vong dưới 1 tuổi năm 2016 là 9,8‰, đến nay ở mức 8,6‰; số trẻ tử vong dưới 5 tuổi năm 2016 là 17,6‰, đến nay còn 15,3‰.
 
Trong buổi làm việc với đoàn kiểm tra Bộ Y tế về tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số năm 2019, Sở Y tế Lâm Đồng đã kiến nghị với đoàn kiểm tra cần có hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy Dân số - KHHGĐ ở địa phương sau khi sáp nhập trở lại với ngành Y tế để tiếp tục thực hiện tốt công tác dân số trong tình hình mới.
 
AN NHIÊN