Quân đội nhân dân Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

09:12, 22/12/2014

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, giai đoạn cả nước cùng thực hiện một chiến lược chung: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 

1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên trong giai đoạn mới
 
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, giai đoạn cả nước cùng thực hiện một chiến lược chung: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 
Sau 30 năm chiến tranh, đất nước ta bị tàn phá nặng nề. Khi cả nước thống nhất, quân đội ta chuyển từ nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu trong thời chiến sang thực hiện nhiệm vụ xây dựng và sẵn sàng chiến đấu, đồng thời tham gia phát triển kinh tế trong thời bình. Những năm 1975 - 1977, nhiệm vụ hàng đầu của quân đội là điều chỉnh một bước về quân số, tổ chức biên chế phù hợp với việc xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng tình hình mới; phối hợp với Ủy ban quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương; tổ chức cải tạo binh lính, cảnh sát của bộ máy chính quyền cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản động, truy quét tàn quân địch và FULRO; khắc phục hậu quả chiến tranh, xử lý chất độc hóa học, rà phá bom mìn …phục hồi sản xuất; tích cực tham gia cải tạo tư sản, địa chủ, bài trừ các tệ nạn xã hội; thu hồi, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự của địch, tạo điều kiện đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên trong giai đoạn mới.
 
2. Cùng toàn dân đánh thắng trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Cam-pu-chia
 
Sau 30 năm chiến tranh, nhân dân ba nước Đông Dương cùng nhau chống kẻ thù chung đã giành được thắng lợi hoàn toàn, tình đoàn kết không ngừng được củng cố. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế đã âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng của ba nước, trọng điểm là Việt Nam bằng những thủ đoạn mới. Trên đất nước Cam-pu-chia, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã thực hiện chính sách phản động làm cho nhân dân Cam-pu-chia phải chịu những tai họa khủng khiếp của nạn diệt chủng, thành quả cách mạng bị thủ tiêu.
 
Đối với Việt Nam, chúng phát động cuộc chiến tranh xâm lược vùng biên giới Tây Nam, gây ra nhiều cuộc thảm sát man rợ đối với nhân dân ta. Mặc dù hết sức kiềm chế, nhưng sau nhiều cố gắng ngoại giao không thành, chúng ta buộc phải thực hiện quyền tự vệ chính đáng và đã kiên quyết đánh trả. Ngày 23/12/1978, quân và dân ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam đã tiến hành cuộc phản công chiến lược, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, đuổi chúng về bên kia biên giới, tạo điều kiện cho nhân dân Cam-pu-chia vùng dậy làm lại cách mạng. Đáp lời kêu gọi khẩn thiết của nhân dân và Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, quân tình nguyện Việt Nam đã giúp đỡ cách mạng Cam-pu-chia thực hiện cuộc tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, đánh đổ chế độ diệt chủng, giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh và phần lớn đất nước, mở đường cho nhân dân Cam-pu-chia hồi sinh, giúp bạn xây dựng lại đất nước. 
 
Ngày 17/2/1979, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đã diễn ra trên tuyến biên giới phía Bắc. Các lực lượng vũ trang địa phương, dân quân tự vệ đã phối hợp với một bộ phận bộ đội chủ lực cùng đồng bào các dân tộc vùng biên giới đã anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đến ngày 16/3 chiến sự kết thúc. Tuy vậy, tình hình biên giới phía Bắc vẫn căng thẳng kéo dài đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Cuộc chiến tranh này đã gây cho nhân dân Việt Nam nhiều tổn thất về sinh mạng, tài sản; tình hữu nghị với Trung Quốc bị tổn thương nghiêm trọng.
 
Thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc có ý nghĩa lịch sử rất to lớn, làm thất bại âm mưu thâm độc của các thế lực phản động, bảo vệ độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tạo môi trường chính trị ổn định để đất nước ta bước vào công cuộc lao động hòa bình. 
 
3. QĐND Việt Nam đẩy mạnh huấn luyện, xây dựng nền nếp chính quy, tham gia phát triển kinh tế - xã hội
 
Trong những năm 1980-1986, quân đội ta đã đẩy mạnh công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy. Công tác huấn luyện được tiến hành cơ bản, toàn diện, hiện đại, góp phần nâng cao khả năng tổ chức chỉ huy và trình độ sẵn sàng chiến đấu. Hệ thống nhà trường quân đội được củng cố, phát triển đồng bộ. Công tác nghiên cứu khoa học quân sự, tổng kết chiến tranh được triển khai tích cực. Công tác đảng, công tác chính trị, tư tưởng từng bước được đổi mới, nâng cao; thực hiện tốt công tác chính sách… làm cơ sở tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội.
 
Trên mặt trận kinh tế, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng, quân đội đã tích cực tham gia xây dựng kinh tế, hoàn thành nhiều công trình kinh tế - quốc phòng trọng điểm, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước sau chiến tranh. Nhiều đơn vị quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Huân chương Quân công và Chiến công các loại.
 
4. QĐND Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
 
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đề ra, QĐND Việt Nam tự hào vì đã có đóng góp xứng đáng vào những thành tựu chung của đất nước trong gần 30 năm đổi mới. Đó là, quân đội đã nắm chắc và dự báo đúng tình hình để chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về quốc phòng; ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tham mưu với Đảng và Nhà nước đề ra đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn các tình huống phức tạp, nhạy cảm, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, không để các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; thực hiện tốt nhiệm vụ giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
 
Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quân đội ta đã tiến hành điều chỉnh bố trí lực lượng; hoàn chỉnh hệ thống quyết tâm, phương án, kế hoạch tác chiến và tích cực luyện tập, diễn tập theo phương án đã xây dựng; thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác, duy trì và thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ và quản lý chặt chẽ từng tấc đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và thành quả cách mạng của nhân dân; chủ động tham gia và góp phần bảo đảm an toàn các sự kiện trọng đại của đất nước và các diễn đàn, hội nghị quốc tế được tổ chức tại Việt Nam.
 
Trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, quân đội đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực; góp phần vào sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế quốc dân, sản xuất thêm nhiều hàng hóa cho xã hội. Đến nay, quân đội đã và đang triển khai 23 khu kinh tế - quốc phòng, 3 dự án lấn biển và 2 điểm dân cư mới. Các khu kinh tế - quốc phòng từng bước phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực, thế trận quốc phòng - an ninh ở những vị trí trọng yếu trên tuyến biên giới, biển đảo của Tổ quốc. Các đội tàu đánh bắt xa bờ của quân đội đã kết hợp tốt giữa sản xuất kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh trên các vùng biển, làm chỗ dựa tin cậy cho các ngư dân và các lực lượng khác của ta phát triển kinh tế biển, đặc biệt là ở các vùng biển, đảo xa bờ.
 
 Quân đội đã có những đóng góp quan trọng trong công tác dân vận, góp phần tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao ý thức cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; tham gia xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, phòng tránh, khắc phục thiên tai, thảm họa; giúp đỡ nhân dân thực hiện các chương trình văn hóa, xã hội; thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn và trong quân đội. Đồng thời, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước kịp thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách và thực hiện có hiệu quả công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội, chính sách ưu đãi người có công, thực hiện tốt phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa… Qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường tiềm lực chính trị - tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân”, hậu phương chiến lược vững chắc trong thế trận phòng thủ chung của cả nước. 
 
Công tác đối ngoại quốc phòng được triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Thông qua đối ngoại quốc phòng, quân đội đã chủ động thúc đẩy quan hệ, hợp tác với các quốc gia láng giềng, tạo ra vành đai an ninh trên các tuyến biên giới đất liền của Tổ quốc; chủ động mở rộng quan hệ quốc phòng với 80 nước và tổ chức quốc tế; từ năm 2006, tham gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm cao… Nhờ đó, đã từng bước củng cố lòng tin với các nước, nâng cao hình ảnh, vị thế, uy tín của đất nước và quân đội ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần vào việc giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
 
Thông qua đối ngoại quốc phòng đã tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, nhất là nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, tiếp thu các tri thức quân sự hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến… góp phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
 
5. Truyền thống chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam
 
Trải qua 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc; quân đội ta đã xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó là:
 
Một là, trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, QĐND Việt Nam luôn kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cả trên đất liền, biển đảo và vùng trời; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc lao động hòa bình của nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.
 
Hai là, với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng, quân đội ta đã khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ, mưu trí, sáng tạo, nghĩ ra nhiều cách đánh thông minh, độc đáo của chiến tranh nhân dân để tiêu diệt sinh lực, phá hủy phương tiện chiến tranh, vô hiệu hóa các vũ khí hiện đại của địch, đánh bại từng thủ đoạn tác chiến, chiến dịch, tiến tới đánh bại chủ trương chiến lược của chúng, cùng nhân dân cả nước giành thắng lợi hoàn toàn. 
 
Ba là, gắn bó máu thịt với nhân dân, quân với dân một ý chí là nguồn sức mạnh to lớn giúp cho quân đội ta chiến thắng mọi kẻ thù. Trong chiến đấu, công tác và học tập, quân đội ta luôn xây dựng tốt mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt với nhân dân; tôn trọng, giúp đỡ, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; một lòng, một dạ chiến đấu bảo vệ nhân dân, luôn luôn giữ nghiêm kỷ luật quan hệ quân - dân, không phụ lòng tin yêu của nhân dân. 
 
Bốn là, đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống nhất ý chí và hành động là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội ta. Đoàn kết nội bộ quân đội dựa trên cơ sở sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, đường lối, nguyên tắc, nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Mọi quân nhân đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc thường cũng như khi ra trận, cán bộ và chiến sĩ luôn nêu cao tình thương yêu đồng chí, đồng đội, giúp đỡ nhau như ruột thịt; phát huy dân chủ, đoàn kết hiệp đồng lập công tập thể; trên dưới đồng lòng, toàn quân thành một khối vững chắc thống nhất ý chí và hành động, vì mục đích chung của cách mạng, của quân đội, của đơn vị và sự tiến bộ của mỗi người.
 
Năm là, kỷ luật tự giác, nghiêm minh là truyền thống tốt đẹp, một trong những yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quân đội ta. Nó được bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân của Đảng; từ sự nhất trí về đường lối, nhiệm vụ của cách mạng, của nhiệm vụ xây dựng và phát triển quân đội. Truyền thống đó được thể hiện ở tính tự giác cao trong thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mỗi quân nhân; sự chấp hành chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên ở bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào. Nếp sống có kỷ luật, trở thành thói quen khi thực hiện nhiệm vụ và ý thức đấu tranh kiên quyết để chống mọi hành vi vô tổ chức, vô kỷ luật đã trở thành lối sống cao đẹp của quân đội ta.
 
Sáu là, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần, kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công đã giúp quân đội ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, không ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Đó là tinh thần chắt chiu, cần, kiệm, thực hiện “mỗi viên đạn một quân thù”, “cướp súng giặc giết giặc”; coi vũ khí trang bị, cơ sở vật chất kỹ thuật là tài sản của Nhà nước, là mồ hôi, xương máu của nhân dân, từ đó đề cao trách nhiệm, giữ tốt, dùng bền, an toàn, tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí; tích cực lao động, tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế nâng cao đời sống... Ngày nay, truyền thống đó càng được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 
Bảy là, lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan của quân đội ta là kết quả từ sự kế thừa những đức tính cao đẹp của dân tộc; từ bản chất, đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân và sự phấn đấu rèn luyện gian khổ của bộ đội. Lối sống đó được thể hiện trong sinh hoạt, học tập, lao động và chiến đấu với tinh thần tự giác cao, khẩn trương, chính xác, linh hoạt, có kỷ luật, có tổ chức; luôn sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, biết quý trọng đồng tiền, công sức lao động và biết thương yêu người nghèo khổ; sống có văn hóa, biết tự trọng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, phân biệt rõ đúng sai, tôn trọng bảo vệ lẽ phải, dũng cảm đấu tranh với những thói hư tật xấu; lạc quan, tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu chiến đấu và thắng lợi tất yếu của cách mạng.
 
Tám là, luôn luôn nêu cao tinh thần ham học, cầu tiến bộ, nhạy cảm, tinh tế trong cuộc sống đã trở thành truyền thống tốt đẹp của quân đội ta; nó thấm sâu vào mỗi quân nhân, đã trở thành cách nghĩ và hành động của mỗi người. Trong thời chiến cũng như thời bình, lúc thuận lợi cũng như khi khó khăn, quân đội ta luôn chủ động khắc phục mọi thiếu thốn, sử dụng mọi thời gian, tranh thủ mọi điều kiện để học tập, rèn luyện với tinh thần bền bỉ, kiên trì, cầu tiến bộ; nhạy cảm về chính trị, tinh tế tiếp thu cái mới và cái tiến bộ, bài trừ và phê phán cái lạc hậu, cái xấu để không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, bản lĩnh chiến đấu, năng lực công tác, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế tri thức, khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch chống phá quyết liệt bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” thì tinh thần ham học, cầu tiến bộ, nhạy cảm, tinh tế trong cuộc sống càng phải được phát huy hơn nữa.
 
Chín là, đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình với bầu bạn quốc tế đã trở thành truyền thống quý báu của Đảng, của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là truyền thống rất vẻ vang của quân đội ta. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta luôn tăng cường củng cố tình đoàn kết với các nước láng giềng, khu vực và nhiều nước trên thế giới, góp phần xứng đáng xây dựng tình đoàn kết giữa các dân tộc, chống áp bức, bóc lột, cường quyền vì mục tiêu hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, quân đội ta hơn lúc nào hết cần phải phát huy bản chất cách mạng, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong khu vực và trên thế giới.