Thế đứng Tây Nguyên

09:01, 01/01/2022
Thuở xa xưa, sống giữa vùng đất đại ngàn với kho tàng tiềm năng giàu có nhưng đồng bào các dân tộc anh em đắm chìm trong đói nghèo, lạc hậu. Từ trong tăm tối hoang vu của núi rừng vây hãm, dòng mạch trầm tích Tây Nguyên vẫn bừng sáng bởi ngọn lửa thiêng, bởi âm thanh đàn đá, nhịp điệu cồng chiêng và những vòng xoang kết nối cộng đồng. Những bộ sử thi kỳ vĩ cũng đã cất lên tiếng nói của các dân tộc anh em thể hiện khát vọng chinh phục, vươn tới những giá trị cao đẹp...
 
Vũ điệu cồng chiêng trên vùng đất Nam Tây nguyên. Ảnh: Quỳnh Uyển
Vũ điệu cồng chiêng trên vùng đất Nam Tây nguyên. Ảnh: Quỳnh Uyển
 
Khi kẻ thù xâm lược đất nước ta, đồng bào Tây Nguyên cũng cùng chung thân phận nô lệ. Máu và nước mắt của những người anh em trên miền cao nguyên đã đổ xuống đất đai cho những đồn điền cao su, cà phê, hồ tiêu tươi tốt, những hầm mỏ khoáng sản quý giá mang lại sự giàu có cho bọn thực dân, đế quốc. Biết bao người đã nát thịt, tan xương dưới vực sâu, trong rừng thẳm bởi những cuộc bắt phu, bắt xâu xây dựng những tuyến đường ngang dọc Tây Nguyên nhằm phục vụ cho mục đích khai thác, vơ vét tài nguyên của quân xâm lược. Trong đêm trường nô lệ, núi rừng Tây Nguyên bị bọn ngoại bang dày xéo, đồng bào các dân tộc thiểu số chịu cảnh đối xử kỳ thị, rẻ mạt, bất công. Kẻ thù còn sử dụng chính sách “ngu dân”, “chia để trị”, gây mâu thuẫn và chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc anh em. 
 
Từ trong máu lửa, những hậu duệ của dũng sĩ Đam San huyền thoại không hoàn toàn cúi đầu cam chịu thân phận tôi đòi, nhiều phong trào yêu nước do các thủ lĩnh Tây Nguyên khởi xướng đã nổ ra khắp nơi.
 
Đồng bào còn mãi nhắc về những vị anh hùng và những phong trào chống Pháp từng làm cho bọn thực dân nhiều phen thất điên bát đảo như các cuộc nổi dậy của tù trưởng Ama Jhao, N’Trang Gưh, thầy giáo Y Jút (Ê Đê); vua lửa Ôi Ất (Giarai), phong trào Săm Brăm (Chăm), phong trào Mọ Cọ (Cơ Ho). Đặc biệt, cuộc kháng chiến kéo dài nhiều năm, trên một địa bàn rộng lớn suốt từ cao nguyên Lang Bian đến tả ngạn sông Mê Kông do người anh hùng N’Trang Lơng (Mơ Nông) lãnh đạo đã trở thành một trận phun trào nham thạch của ngọn núi lửa yêu nước trên miền Tây Nguyên. Nhưng tất cả các phong trào tự phát đều rơi vào thất bại, chỉ đến khi có ánh sáng của Bác Hồ, của Đảng do các chiến sĩ cộng sản mang về, Tây Nguyên mới bừng lên một tinh thần cách mạng mới. Sức mạnh bất khuất tiềm tàng của núi, của nước, của những giấc mơ đấu tranh, chinh phục thuở hồng hoang lịch sử được những “người của Đảng” thổi cháy bùng lên. Tây Nguyên cùng đất nước đứng lên, kề vai sát cánh với cả dân tộc chiến đấu chống lại kẻ thù. Những con cháu của N’Trang Lơng, của Ama Jhao, của N’Trang Gưh, Mọ Cọ nghe theo lời Đảng, lời Bác đánh Pháp, đuổi Mỹ và trở thành những anh hùng trong thời đại mới, như: Đinh Núp, A Sanh, Bi Năng Tắc, K’Đen... Những buôn làng ngày xưa tối tăm không tìm ra đường sáng đã trở thành những vùng chiến khu kiên trung một lòng theo cách mạng như Đắk Ui (Kon Tum), Nâm Nung (Đắk Nông), Chư Djũ (Đắk Lắk), Đồng Mang - Đạ Tro, Lộc Bắc, Lộc Lâm, Đồng Nai Thượng (Lâm Đồng)... 
 
* * *
 
Từ ngày nước nhà thống nhất, đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên thực sự được giải phóng bởi đêm trường đói nghèo, lạc hậu; được làm công dân của một nước độc lập; được phát triển bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc anh em. Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều nghị quyết, tổ chức nhiều chương trình và đầu tư những nguồn lực lớn để phát triển Tây Nguyên. Đặc biệt, từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Quyết định số 168 của Thủ tướng Chính phủ về “phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng vùng Tây Nguyên” và các chương trình giải quyết đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt cho đồng bào thì nguồn lực tập trung đầu tư vào địa bàn chiến lược này ngày càng cao. Trên vùng đất năm tỉnh phía tây Tổ quốc (Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông), diện tích tự nhiên trên 55 km2, kho tàng tài nguyên thiên nhiên giàu có, ngôi nhà chung của hơn 5 triệu người của 47 dân tộc anh em, khắp các buôn làng, phố thị cuộc sống ngày càng khởi sắc. Những công trình hạ tầng, phúc lợi ngày càng được xây dựng nhiều hơn. Tây Nguyên trong ký ức là miền thẳm xa, heo hút. Bởi lẽ đó, trong nhiều năm qua, Nhà nước phát huy mọi nguồn lực nhằm phát triển giao thông tại vùng. Ngày nay, đường bộ toàn mạng lưới có độ dài gần 40 ngàn km đã kết nối các tỉnh Tây Nguyên, mở rộng cơ hội giao thương với các trung tâm lớn cả nước và các nước trong khu vực. Trong đó, các quốc lộ chạy qua Tây Nguyên có tổng độ dài 2.517 km; các liên tỉnh lộ gần 2.035 km và hệ thống giao thông liên cửa khẩu đã nối liền Tây Nguyên với các nước láng giềng. Đường Hồ Chí Minh cùng đường hành lang Đông - Tây xuyên qua vùng đã làm thay đổi diện mạo những buôn làng từng là vùng sâu, vùng xa. Hàng không phát triển nhanh với ba sân bay: Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Plâycu. Dự án khôi phục đường sắt Đà Lạt - Tháp Chàm và mở tuyến đường sắt mới phục vụ cho các nhà máy Alumin Nhân Cơ, Tân Rai đang được tính toán. Giao thông tiện lợi, chuỗi các đô thị Tây Nguyên nối liền vào nhau, những thành phố trong khu vực trở thành những đầu tàu kinh tế - xã hội toàn vùng. Mỗi thành phố có những lợi thế và bản sắc riêng. Buôn Ma Thuột, đồng bằng giữa miền cao nguyên đất đỏ, là thủ phủ của tỉnh Đắk Lắk. Đà Lạt, một trung tâm du lịch, vùng chuyên canh rau và hoa lớn nhất nước. Plâycu, quê hương của hồ tiêu, cao su, nơi khởi nguồn của nhiều doanh nghiệp lớn ngành chế biến nông, lâm sản. Tây Nguyên trở thành vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước với gần 600 ngàn héc-ta cà phê, sản lượng bình quân đạt 1,3 triệu tấn hằng năm; 72 ngàn héc-ta hồ tiêu, sản lượng mỗi năm đạt từ 121 ngàn tấn; cao su, điều, rau, hoa cũng phát triển mạnh. GDP bình quân đầu người xấp xỉ 40 triệu đồng...
 
Ngày xưa, với tập quán du canh du cư, cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số đói nghèo, cơ cực. Từ ngày thống nhất, Đảng và Nhà nước tổ chức cho người dân định canh định cư, ổn định cuộc sống, vươn lên làm giàu. Khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, tiếp cận thành công kinh tế thị trường nên trên vùng đất này đã xuất hiện nhiều tỉ phú người dân tộc thiểu số. Đặc biệt, Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) được triển khai tích cực, hiệu quả đã tiếp thêm sinh khí và mang lại bộ mặt tươi mới cho Tây Nguyên. Đời sống người dân khởi sắc; điện, đường, trường học, cơ sở y tế và nhiều công trình hạ tầng, phúc lợi khác mọc lên nhiều hơn trên những vùng đất từng lạc hậu, đói nghèo. Ở Tây Nguyên, sau mười năm triển khai chương trình, Lâm Đồng là tỉnh đạt kết quả cao nhất với hai huyện và 90/116 xã đạt chuẩn. Con số 51 nghìn tỉ đồng đầu tư xây dựng NTM tại tỉnh Đắk Lắk, trong đó có gần 5 nghìn tỉ huy động từ doanh nghiệp và Nhân dân đã nói lên hiệu quả của chương trình. Tại Gia Lai, đến thời điểm này đã có 60/184 xã và một thị xã đạt chuẩn NTM. Có thể nói, cùng với việc quy hoạch, triển khai đầu tư phát triển các đô thị, các tỉnh Tây Nguyên đang nỗ lực thực thi các giải pháp để nâng cao tốc độ phát triển nông thôn, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, rút ngắn khoảng cách thu nhập và điều kiện thụ hưởng các lợi ích an sinh. Cùng với việc mở mang các khu, điểm, cụm công nghiệp, các dự án lớn, việc triển khai chương trình xây dựng NTM đến tất cả các huyện, xã, buôn, làng đã góp phần cải thiện hạ tầng, nâng cao nhận thức và giúp đồng bào đẩy lùi nghèo đói, hướng đến sự no đủ giàu có. Đồng thời với việc bản sắc văn hóa được bảo tồn, đồng bào các dân tộc thiểu số còn được hưởng những chính sách ưu đãi về giáo dục, y tế và các chính sách an sinh xã hội khác... 
 
* * *
 
Trong những ngày đất nước còn chìm trong máu lửa, các chiến sĩ cách mạng khi về với buôn làng vận động Nhân dân kháng chiến đã dựa vào dân, “bốn cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng) với dân. Cán bộ, đảng viên đã sống chung với đời sống đói cơm, nhạt muối của đồng bào để cùng dân bám núi rừng đánh giặc. Ngày nay, hình ảnh của Đảng giữa buôn làng là sự hiện hữu của những chương trình, của từng ý nghĩ, lời nói, việc làm mang lại hiệu quả sống động cho mỗi vùng quê và mỗi người dân. Đảng cùng dân xây dựng hạ tầng, bảo vệ vốn rừng, đầu tư làm thủy lợi, thủy điện, hỗ trợ dân trồng cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi. Đảng cùng dân chống lại những luận điệu sai trái của kẻ xấu, tập trung xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng. Đảng đưa con em đồng bào đến trường, giúp dân nghèo dựng cái nhà để ở, bày cách phòng tránh bệnh tật và khám chữa bệnh cho dân. Đảng góp sức cùng dân bảo tồn và phát huy hệ thống các giá trị văn hóa cổ truyền...
 
Đi giữa Tây Nguyên giàu đẹp hôm nay, nhớ lại lời bài hát “Đảng Lam Gùng” (Đảng lãnh đạo) - một bài hát từ thời chiến tranh, mà ông K’Mùng, một cựu du kích Cơ Ho ở Sơn Điền (Di Linh), từng hát cho nghe: “Tus năm dô anh ủng hộ cách mạng. Tus năm dô anh geh Đảng lam gùng. Rgùn kon cau anh srới Mỹ - Diệm... (Từ năm này anh ủng hộ cách mạng. Từ năm này anh có Đảng lãnh đạo. Tập hợp Kinh - Thượng anh đánh Mỹ - Diệm...) Theo lời ca giản dị mà liên tưởng về không gian quá khứ qua biểu cảm của người con núi rừng, như càng hiểu thêm về mạch nguồn cách mạng chảy mãi trên miền đại ngàn hùng vĩ. Mạch nguồn đó đã tạo nên nền tảng cho một thế đứng vững bền của vùng đất giàu đẹp với những tộc người anh em kiên trung, bất khuất và nghĩa tình Tây Nguyên.
 
UÔNG THÁI BIỂU