Ầu ơi tiếng Việt

03:02, 07/02/2019

Tiếng Việt. Tiếng nước tôi. Tiếng mẹ ru. Tiếng lòng tôi. Tiếng nói mà mỗi người con dân Việt nặng lòng với hồn dân tộc đều muốn tin rằng, nó là thứ tiếng đẹp nhất, trong sáng nhất, phong phú nhất, thiêng liêng nhất không những luôn thức gợi mà còn biết nở sáng trong âm nhạc Đình Nghĩ. Ầu ơi tiếng Việt có nỗi dùng dằng, lay thức rất riêng của Đình Nghĩ về tiếng mẹ đẻ, cũng là nguồn cội dân tộc.

Tiếng Việt. Tiếng nước tôi. Tiếng mẹ ru. Tiếng lòng tôi. Tiếng nói mà mỗi người con dân Việt nặng lòng với hồn dân tộc đều muốn tin rằng, nó là thứ tiếng đẹp nhất, trong sáng nhất, phong phú nhất, thiêng liêng nhất không những luôn thức gợi mà còn biết nở sáng trong âm nhạc Đình Nghĩ. Ầu ơi tiếng Việt có nỗi dùng dằng, lay thức rất riêng của Đình Nghĩ về tiếng mẹ đẻ, cũng là nguồn cội dân tộc.
 
Nhạc sĩ Đình Nghĩ
Nhạc sĩ Đình Nghĩ
Ca khúc được Đình Nghĩ viết theo hình thức hai đoạn đơn (A - B) cộng thêm phần coda (đoạn kết) mang tính chất phức điệu hai bè cách quãng dâng cao rồi kết thúc mạnh mẽ. Giai điệu Ầu ơi tiếng Việt hoàn toàn dựa trên nền âm nhạc ngũ cung. Cụ thể ở đây là bài Nước non ngàn dặm ra đi điệu Nam Ai - Nam Bằng trong Nhã nhạc Cung đình Huế. Mở đầu ca khúc là cái nhìn nghệ thuật của thi ca và âm nhạc: “Yêu câu ca dao thương tiếng nước tôi/ dập dồi mơ/ đêm xanh mờ”. Sự khởi đó chỉ là cái cớ, cái giăng mắc để hình bóng người mẹ trở về, hiện rõ lên trong nỗi nhớ người con, cho thấy nỗi thương khó bời bời của mẹ: “Đời mẹ nhọc nhằn giữa dòng sông trắng/ thuyền ngược xuôi/ chở buồn vui”. Thăm thẳm hồi tìm hình bóng mẹ, âm nhạc vì thế giàu nỗi yêu thương, nặng chất hồi cố, xa cũ, bâng khuâng: “Yêu câu ca dao thương tiếng nước tôi/ mùa nổi trôi/ long đong chờ/ Lời mẹ ngọt mềm đợi hoàng hôn tím/ ngược chiều say/ đàn cò bay”. 
 
Tìm vọng hình bóng mẹ, với nhiều thổn thức thương yêu, nhưng Đình Nghĩ không muốn dừng lại trong niềm hoài cổ. Vì thế, khi chuyển sang đoạn B, biên độ xúc cảm được mở rộng, nét nhạc sáng rõ hơn, ánh xạ một bức tranh quê hương nhiều cung điệu làng xưa, bến nước, bóng núi, câu ca cổ: “Tiếng Việt/ rung rinh con tim mặt trời/ soi nghiêng chớp vắng/ chắn sóng cùng về/ Tiếng Việt/ rêu phong Nam Ai - Nam Bằng/ thanh âm ríu rít/ quấn quýt đưa nôi/ Tiếng Việt/ sao Hôm - sao Mai bên trời/ trăng rơi suối mát/ ngút ngát nương đồi/ Tiếng Việt/ trên hai vai sương vơi đầy/ heo may gió bấc/ lất phất chân đê”. Phải là người yêu quý tiếng mẹ đẻ, trách nhiệm với tiếng nói dân tộc, mới viết được những câu nhạc đẹp như thế, mới đưa tiếng Việt thoát khỏi phạm trù ngôn ngữ học thông thường, nghĩa là phương tiện dùng trong việc giao tiếp, để trở thành linh hồn dân tộc, như học giả Phạm Quỳnh đã đúc kết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Một xác tín cực chuẩn từ cảm quan triết học về mối quan hệ giữa kiệt tác của nghệ thuật ngôn từ với tiếng nói dân tộc và văn hóa dân tộc. Ở Ầu ơi tiếng Việt, một lần nữa Đình Nghĩ cũng khẳng định, tiếng nước tôi chính là linh hồn dân tộc tôi: “Thiêng liêng thiêng liêng tiếng nước tôi/ mẹ ầu ơi/ linh hồn người Việt”.
 
Mẹ, quê xứ cũng là nơi chia sẻ, cầm níu, neo đậu nỗi nhớ quắt quay của những người con xa xứ: “Đi muôn phương mang bao thứ tiếng quê hương/ Thiêng liêng thiêng liêng/ tiếng nước tôi/ linh hồn người Việt”.     
 
Ầu ơi tiếng Việt đã và sẽ còn gợi thức trong ta một nỗi bâng khuâng, nhẹ nhõm và thấm đẫm trách nhiệm.
 
 
TRỊNH CHU