Từ Thánh địa Cát Tiên nghĩ về tính cộng sinh văn hóa

01:09, 08/09/2022
Nằm tập trung trong bồn địa rộng khoảng 30 ha, Thánh địa Cát Tiên (xã Quảng Ngãi, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng) là một quần thể liên lập các phế tích kiến trúc đền tháp mang nhiều yếu tố văn hóa Ấn Độ giáo. Trong trường ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ giáo ấy, cư dân cổ ở đây còn dung nạp thêm những yếu tố văn hóa ngoại sinh từ các nền văn hóa lân cận như Chămpa, Phù Nam và Angkor nhưng vẫn khẳng định tính nội sinh độc đáo của mình.
 
 Du khách tham quan Thánh địa Cát Tiên
Du khách tham quan Thánh địa Cát Tiên
 
  THÁNH ĐỊA BÀ LA MÔN GIÁO
 
Cư dân cổ Cát Tiên đã chọn vùng đất được bao bọc bởi những dãy núi hình bát úp ở phía Tây, phía Bắc và phía Đông, lại có con sông Đồng Nai án ngữ ở phía Nam như ranh giới tự nhiên, để xây dựng một trung tâm tôn giáo. Chính địa thế của miền đất này, tạo nên vùng không gian kín, đủ yếu tố linh thiêng, thỏa mãn các giáo lý Bà la môn giáo. Bà la môn giáo, hay còn gọi Ấn Độ giáo, là tôn giáo phiếm thần xen lẫn đa thần, xuất hiện vào những thế kỷ đầu của thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Trong quan niệm của Bà la môn giáo, Trời hay Thượng đế là tam vị nhất thể gồm 3 ngôi: Brahma (đấng sáng tạo), Vishnu (đấng bảo tồn) và Shiva (đấng hủy diệt). “Đây hiển nhiên là các đền tháp thờ thần Shiva, thể hiện ở sự có mặt của các ngẫu tượng Linga - Yoni (sinh thực khí của đàn ông và sinh thực khí của đàn bà). Ngẫu tượng Linga - Yoni được đặt tại chỗ, gắn liền, không mảy may có sự xê dịch, mang từ nơi khác tới. Việc thờ ngẫu tượng Linga - Yoni ở Thánh địa Cát Tiên hoàn toàn giống đền tháp Chămpa, nhất là các đền tháp Nam Chămpa, nơi nào cũng có Linga - Yoni”, Giáo sư Lương Ninh khẳng định như vậy, tại Hội thảo khoa học về Thánh địa Cát Tiên lần thứ I - năm 2001.
 
Cũng tại hội thảo năm đó, trong tham luận của mình, Tiến sĩ Lê Đình Phụng cho rằng: “Những nét tương đồng dễ nhận thấy ở khu di tích này với hệ thống tháp Chămpa hiện còn đó là về bình đồ kiến trúc, hướng kiến trúc, cấu trúc lòng tháp... Vật liệu xây dựng ở đây chủ yếu là gạch, kỹ thuật xây dựng mài chập tạo sự liên kết các viên gạch thành một khối vững chắc, giữa các viên gạch có lớp nhựa thực vật mỏng làm chất kết dính. Trang trí khắc tạc trên gạch, hệ thống cột tròn hình bán khuyên ở Thánh địa Cát Tiên gần như cách khắc tạc tại tháp Hòa Lai (Ninh Thuận)”. Thêm yếu tố nữa cho thấy cư dân cổ ở Cát Tiên chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo: các đền tháp ở Thánh địa Cát Tiên có cửa chủ yếu quay về hướng Đông, lòng tháp rộng lát đá phiến, chân tháp phía mặt ngoài xây bo góc, giật cấp nhiều lần. Ngoài ra, nơi đây còn có 352 mảnh vàng thể hiện nội dung tôn giáo: hình các vị thần, các vật linh và các ký tự sancrit cổ thuộc Ấn Độ giáo.
 
•  HỖN DUNG NHIỀU NỀN VĂN HÓA
 
Từ hiện trường khai quật, cùng số lượng hiện vật đã tìm thấy tại Thánh địa Cát Tiên, nhiều nhà khoa học đưa ra đoán định: Nơi đây đã tồn tại một vương quốc, một xã hội có tổ chức, phát triển trong vị thế tương đối độc lập với Phù Nam và Chămpa? Bởi theo như Giáo sư Lương Ninh: “Để xây dựng cụm công trình kiến trúc lớn như ở Cát Tiên, đương nhiên đòi hỏi những chi phí và nhân lực không nhỏ. Đây chắc hẳn phải là thành tựu của một quốc gia, một vương triều, một xã hội có tổ chức và có trình độ văn hóa khá phát triển”.
 
 Thật vậy, nếu đặt Thánh địa Cát Tiên trong tổng thể các di tích kiến trúc ảnh hưởng Ấn Độ giáo sẽ thấy quy mô các kiến trúc ở đây là lớn nhất (30 ha), số lượng phế tích nhiều nhất (chỉ tính riêng tại Khu trung tâm Thánh địa Cát Tiên là 13 phế tích kiến trúc đền tháp và các công trình chức năng khác), số lượng hiện vật thu được trong khai quật cũng nhiều nhất (1.333 hiện vật, phong phú về loại hình và đề tài). Trong đó, tháp 1A là tháp có diện tích mặt bằng to nhất (144 m2). Chưa kể, Thánh địa Cát Tiên còn sở hữu bộ ngẫu tượng Linga - Yoni bằng đá lớn nhất Đông Nam Á (Linga cao 2,10 m, chia thành 3 phần cân xứng, tương ứng với 3 ngôi Brahma, Vishnu, Shiva và Yoni dài 2,26 m), cùng một Linga bằng đá thạch anh lớn nhất Việt Nam (dài 25 cm, chu vi 28 cm), một Linga bằng đồng cũng lớn nhất Việt Nam (dài 55 cm, đường kính thân 25 cm), và 397 hiện vật bằng vàng... Qua những biểu hiện kỹ thuật khắc tạc trên đá và vàng, trong trang trí các đền tháp, chế tác gạch, điêu khắc tượng tròn... đã hé lộ cư dân cổ ở đây có một trình độ luyện kim khá cao, cùng khả năng thẩm mỹ tương đối vượt trội. Qua đây còn cho thấy, phải là một xã hội có tổ chức quy củ, một trình độ phát triển nhất định, mới huy động được nhân lực, vật lực, kỹ thuật... để xây dựng Thánh địa Cát Tiên với nhiều cái nhất như vừa nêu ở trên. 
 
Tiến sĩ Đào Linh Côn, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ học vùng Nam Bộ, nay là Viện Khoa học xã hội TP Hồ Chí Minh, người có nhiều năm gắn bó với Thánh địa Cát Tiên, chia sẻ: “Thánh địa Cát Tiên có kiến trúc nặng về văn hóa Chămpa. Bằng chứng là những hiện vật tìm thấy ở đây có nhiều yếu tố ảnh hưởng văn hóa Chămpa như các mảnh phù điêu chạm khắc hình các tu sĩ đầu vấn khăn, tục táng người trong mộ chum... Đó là một trong những nét văn hóa đặc trưng của cư dân Malayo - Polynésien (Mã Lai - Đa Đảo)”. Bên cạnh những yếu tố văn hóa ngoại sinh ảnh hưởng từ Chămpa, Thánh địa Cát Tiên cũng có nhiều điểm tương đồng với hệ thống các di tích kiến trúc thuộc truyền thống văn hóa Óc Eo và hậu Óc Eo trên địa bàn Đông Nam Bộ. “Trang trí mi cửa đền tháp gò số 2A Cát Tiên tương tự như mi cửa tháp Bình Thạnh (Tây Ninh), bệ Yoni đền tháp 2A giống như bệ Yoni tìm được ở di tích Đá Nổi (An Giang). Trang trí trên các lá vàng ở Thánh địa Cát Tiên giống với trang trí trên các lá vàng ở di tích Gò Thành (Tiền Giang), Gò Xoài (Long An), Đá Nổi và di tích Nền Chùa (Kiên Giang), không chỉ về đề tài mà cả về kỹ thuật khắc miết, hay dập nổi”, Tiến sĩ Lê Đình Phụng cho biết tại Hội thảo khoa học về Thánh địa Cát Tiên lần thứ I - năm 2001. Trên cơ sở đó, Tiến sĩ Lê Đình Phụng tạm kết luận: “Đây là một khu thánh địa có tính chất riêng, thuộc truyền thống văn hóa Óc Eo nhưng ảnh hưởng văn hóa Chămpa trong quá trình tồn tại và phát triển”.
 
•  CỘNG SINH VĂN HÓA
 
Với những dẫn chứng ở trên, chúng ta thấy rằng, Thánh địa Cát Tiên là nơi hội tụ nhiều nền văn hóa, cả văn hóa núi lẫn văn hóa biển. Tuy vậy, nó không nghiêng hẳn về hệ thống kiến trúc văn hóa Chămpa, cũng không thuộc hẳn hệ thống kiến trúc văn hóa Óc Eo, hay hệ thống kiến trúc văn hóa Angkor. Quả như cố Giáo sư Trần Quốc Vượng đã khẳng định: “Di tích này có tính đứng giữa. Và, nó là chính nó”.
 
Trong thực tế lịch sử, việc giao lưu văn hóa là đòi hỏi khách quan và tất yếu. Nền văn hóa này ảnh hưởng qua lại với nền văn hóa kia cũng là khách quan và tất yếu. Tuy nhiên, cái đặc biệt của cư dân cổ ở Cát Tiên chính là việc đã tạo nên một cơ tầng văn hóa đủ sức hội nhập với các nền văn hóa khác, tạo nên sự hỗn dung văn hóa giữa Phù Nam, Chân Lạp, Chămpa và Angkor - cùng ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ giáo, bên cạnh việc sáng tạo nên hệ giá trị văn hóa bản địa rất riêng. Chính những yếu tố văn hóa nội sinh nổi trội, góp phần khẳng định tính độc lập của chủ nhân Thánh địa Cát Tiên. Do vậy, cư dân cổ ở Cát Tiên đã tập trung nguồn lực quốc gia, tích hợp các tinh hoa văn hóa nội sinh và văn hóa ngoại sinh, xây dựng nên trung tâm tôn giáo Bà la môn ngang tầm, thậm chí có những yếu tố nội sinh vượt hẳn các quốc gia lân cận. Thế nhưng, vì cùng hệ ý thức tôn giáo, không thể tách rời các chuẩn tắc Ấn Độ giáo trong xây dựng đền tháp, cũng như việc định tín thần chủ, nên chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy các thành tố văn hóa Chămpa, văn hóa Óc Eo, văn hóa Angkor hỗn dung ảnh hưởng trong một chỉnh thể văn hóa tại Thánh địa Cát Tiên.
 
TRIỀU KA