50 năm Hiệp ðịnh Paris về Việt Nam: Thắng lợi của sức mạnh tổng hợp

VŨ TRUNG KIÊN 00:10, 23/01/2023

Nhà thơ Nhân dân người Dagestan thuộc Liên Xô là Rasul Gamzatov trong tác phẩm “Dagestan của tôi” đã viết đại ý rằng: dân tộc nhỏ cần phải có dao găm lớn và dân tộc nhỏ cần phải có bạn bè lớn. 50 năm trước, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris về “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết. Đây là thắng lợi từ sức mạnh tổng hợp của dân tộc, trong đó có sự giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế.

Quang cảnh ngày khai mạc Hội nghị quốc tế về Việt Nam tại thủ đô Paris, Pháp. Ảnh: Tư liệu
Quang cảnh ngày khai mạc Hội nghị quốc tế về Việt Nam tại thủ đô Paris, Pháp. Ảnh: Tư liệu

  CUỘC ĐẤU TRÍ NGOẠI GIAO LÂU DÀI VÀ CĂNG THẲNG

Ít có cuộc đàm phán nào diễn ra với khoảng thời gian dài, với nhiều phiên họp như Hội nghị Paris về Việt Nam. Thời gian đàm phán kéo dài từ ngày 13/5/1968 đến ngày 27/1/1973. Cuộc đàm phán kéo dài 4 năm 8 tháng với 202 phiên họp chính thức và 52 phiên họp kín, bí mật. Ngày 13/5/1968, Hội nghị Paris giữa 2 bên khai mạc. 

Ngay từ khi bắt đầu đàm phán, những người lãnh đạo của chế độ Sài Gòn đã chống phá quyết liệt. Sau này, để mau chóng rút khỏi vũng lầy trong cuộc chiến tranh Việt Nam, nước Mỹ đã sử dụng các biện pháp cứng rắn buộc chế độ Sài Gòn phải chấp nhận ký kết các điều khoản của hiệp định. Ngày 16/1/1973, Đại tướng Haig, Cố vấn Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Nixon, trao cho Nguyễn Văn Thiệu bức thư của Nixon, mà Kissinger gọi là “bốc lửa”, trong đó có đoạn: “Vì vậy chúng tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt Hiệp định ngày 23/1/1973 tại Paris. Nếu cần thiết, chúng tôi sẽ làm như thế một mình. Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng Chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự sắp xếp lại chính quyền của ông cũng chẳng thay đổi được tình hình”. Trước sức ép của Mỹ, Việt Nam Cộng hòa cuối cùng phải chấp nhận ký kết hiệp định. 

Nội dung cơ bản của Hiệp định là Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như được công nhận bởi Hiệp định Geneva về sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, theo đó, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, miền Bắc và miền Nam không phải hai quốc gia riêng biệt mà chỉ là hai vùng tập kết quân sự khác nhau. Các bên tiến hành ngừng bắn trên toàn Việt Nam bắt đầu từ ngày 27/1/1973. Ở miền Nam tất cả các đơn vị quân sự Mỹ và đồng minh, hai bên miền Nam Việt Nam ở nguyên vị trí (không áp dụng với quân đội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Hoa Kỳ sẽ chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Hoa Kỳ chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi lực lượng trên bộ, trên không, trên biển… Các bên tiến hành trao trả tù binh...

•  THẮNG LỢI CỦA SỨC MẠNH TỔNG HỢP DÂN TỘC 

Thắng lợi của việc ký kết Hiệp định Paris là thắng lợi của sức mạnh tổng hợp của dân tộc bao gồm thắng lợi về mặt quân sự, thắng lợi từ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.

Từ cuối năm 1964, sau khi Chương trình “Chiến tranh đặc biệt” có nguy cơ bị thất bại, Hoa Kỳ buộc phải tăng quân trên chiến trường và bắt đầu các hoạt động quân sự chống phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” lấy cớ đánh phá miền Bắc Việt Nam. Chính vào lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, tháng 12/1965, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 12, trong đó chỉ rõ “đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa đánh vừa đàm” nhưng nhận định “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp”. Ngày 31/3/1968, tổng quân số liên quân Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa đạt 1.375.747 quân. Năm 1966, sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giành hàng loạt các chiến thắng, Hoa Kỳ bắt đầu đề cập tới giải pháp đàm phán hòa bình. Riêng trong 3 tháng đầu năm 1967, liên quân Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức 884 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên. Trong 3 tháng đầu 1967, Không quân của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tiến hành 151.044 phi xuất và 37.851 cuộc hải xuất oanh tạc và do thám miền Bắc. Trong giai đoạn 1966 - 1967, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bắt đầu sử dụng chất độc hóa học để khai quang các khu vực của Quân Giải phóng… Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Ngày 31/3/1968, Tổng thống Johnson tuyên bố: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra (90% lãnh thổ miền Bắc) và chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 

Trên trường quốc tế, uy tín của Mỹ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, làn sóng phản đối chiến tranh, đòi Mỹ ngồi vào bàn đàm phán tăng mạnh. Đầu tháng 3/1968, Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc U.Thant kêu gọi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và coi đây là điều kiện để tổ chức đàm phán. Ngày 14/5/1968, trong bài phát biểu tại Trường Đại học Alberta (Canada) ngài U. Thant - Tổng Thư ký Liên hiệp quốc đã “tỏ rõ lập trường ủng hộ quan điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ thực hiện một cuộc ngưng oanh tạc toàn diện vô điều kiện miền Bắc”. Lãnh đạo nhiều nước trên thế giới bằng cách này hay cách khác bày tỏ sự ủng hộ đối với Việt Nam từ Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Tư, Anlgéri, Tanzania… Trong Hồi ký của mình, bà Nguyễn Thị Bình cho biết, khi bà tới thăm Ấn Độ theo lời mời của Thủ tướng Ấn Độ, Lãnh sự của chính quyền Sài Gòn ở Ấn Độ đã phản đối. Chính phủ Ấn Độ trả lời chính thức “Mời ai là quyền của chúng tôi”. Đảng Cộng sản Pháp (PCF), một lực lượng chính trị rất mạnh ở Pháp lúc bấy giờ. Ngoài sự giúp đỡ vật chất rất to lớn cho hai đoàn Việt Nam tham gia đàm phán còn tích cực trong việc tập hợp các lực lượng chính trị và nhân dân Pháp ủng hộ các cuộc kháng chiến của ta và phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ; làm cầu nối giữa Việt Nam và Pháp vì hai nước lúc bấy giờ chưa có quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. 

Cùng với ngoại giao bằng con đường Chính phủ, mặt trận ngoại giao nhân dân đã được tận dụng triệt để. Hồi ký của bà Nguyễn Thị Bình cho biết: “Bất cứ nước nào mời, tổ chức nào mời là chúng tôi tranh thủ đi, ở Pháp, Mỹ, châu Phi hay châu Mỹ, tận dụng mọi cơ hội để tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị và các chính phủ…”. Trong quá trình diễn ra đàm phán, Việt Nam đã tạo dựng được một mặt trận nhân dân thế giới, đoàn kết tất cả các lực lượng chính trị tiến bộ trên thế giới. Người dân Mỹ tiến bộ cũng như đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới đã tổ chức nhiều cuộc tuần hành để ủng hộ công cuộc đấu tranh chính nghĩa của Nhân dân Việt Nam. Nhớ về sự kiện trọng đại này, bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, khi ấy là Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng Đoàn Đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã xúc động ghi trong hồi ký của mình rằng, khi đặt bút ký hiệp định lịch sử này bà đã vô cùng xúc động, nghĩ đến “đồng bào, đồng chí, đến bạn bè ở cả hai miền Nam Bắc… (…) là ân tình sâu đậm mà cả thế giới giành cho cuộc chiến đấu anh dũng của Nhân dân ta”. 

Thắng lợi vĩ đại của Hội nghị Paris 50 năm trước gợi mở cho chúng ta rất nhiều bài học có giá trị. Phải luôn kiên định và kiên quyết bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc; nêu cao chính nghĩa, khát vọng và thiện chí hòa bình trước cộng đồng quốc tế; kết hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc từ chính trị, quân sự, ngoại giao; thực hiện đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế... Trong đấu tranh ngoại giao phải luôn luôn nhất quán và giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, kiên quyết bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc, không để cho các thế lực bên ngoài lợi dụng hoặc can thiệp…