Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên theo tinh thần Nghị quyết 21-NQ/TW

07:11, 16/11/2022
(LĐ online) - Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn xác định xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác này. Gần đây, Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa XIII vừa ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về “tăng cường, củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”, trong đó nội dung “nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên” có ý nghĩa hết sức quan trọng.
 
Sở dĩ “nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên” có ý nghĩa hết sức quan trọng là bởi đây là lực lượng nòng cốt, là cầu nối giữa Đảng với Nhân dân và là nhân tố phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, cùng nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đúng như Điều lệ Đảng đã nêu: “Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Người đã chỉ rõ đảng viên là “sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng” và trước lúc đi xa, Người còn căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư (…), phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. 
 
Quán triệt quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tính đến 31/12/2021, toàn Đảng có tổng số 5.325.532 đảng viên, chiếm tỉ lệ trên 5,4% dân số cả nước (bình quân 100 người dân có khoảng 6 đảng viên). Đặc biệt, 10 năm gần đây (từ 2010-2020), công tác phát triển đảng viên được chú trọng và đạt được nhiều kết quả quan trọng cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Mỗi năm tăng 143.357 đảng viên; số lượng đảng viên nữ, trẻ, người dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư nhân đã tăng lên. Chất lượng đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực; trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị được nâng cao hơn; “phần lớn đội ngũ đảng viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tự phê bình và phê bình, tiên phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ mật thiết với nhân dân”, góp phần quan trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng.
 
Bên cạnh đó vẫn còn “Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng; suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Nhận thức về Đảng, động cơ phấn đấu vào Đảng của không ít đảng viên chưa đúng, không trong sáng. Cơ cấu đảng viên chưa hợp lý; tỉ lệ đảng viên trẻ chưa tương xứng với tiềm năng”. Từ năm 2016 - 2020, cả nước có 25.104 đảng viên suy thoái hoặc có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bị xử lý kỷ luật (0,5% tổng số đảng viên). 
 
Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện cả những ưu điểm và hạn chế, Nghị quyết số 21-NQ/TW đã đề ra quan điểm chỉ đạo cụ thể về nâng cao chất lượng đảng viên là: Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, đồng thời mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan tâm phát triển đảng viên trong đoàn viên thanh niên và công đoàn, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu, nhất là ở địa bàn khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vùng dân tộc thiểu số. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. 
 
Đồng thời, đề ra mục tiêu: Đến năm 2025, hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; phấn đấu 100% thôn, bản có đảng viên. Tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm trong giai đoạn 2020 - 2025 đạt từ 3 - 4% tổng số đảng viên. Đến năm 2030, hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại từ hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; phấn đấu 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ. Tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm trong giai đoạn 2025 - 2030 đạt từ 3 - 4% tổng số đảng viên.
 
Trên cơ sở quan điểm, mục tiêu đề ra, Nghị quyết 21 đã đưa ra nhóm nhiệm vụ, giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, đó là:
 
Đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên. Nhiệm vụ này nhấn mạnh việc nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đồng thời yêu cầu mỗi đảng viên cần nêu cao ý thức “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên; từ đó sẽ giúp tránh xa những cám dỗ vật chất, danh vọng, quyền lực để giữ gìn đạo đức trong sạch, liêm chính.
 
Tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách. Đặc biệt, lần này Trung ương nhấn mạnh đến việc tăng cường quản lý đảng viên; đổi mới đánh giá, xếp loại đảng viên; kiên quyết xử lý kỷ luật những đảng viên vi phạm; đồng thời đề cao vai trò kiểm tra, giám sát của cấp ủy và mỗi cơ sở đảng. Sở dĩ Trung ương nhấn mạnh những vấn đề này là bởi, thực tiễn thời gian qua cho thấy một số tổ chức đảng đã buông lỏng quản lý dẫn đến không ít đảng viên coi thường kỷ luật đảng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, vi phạm pháp luật, thậm chí bị truy tố, khai trừ ra khỏi Đảng; công tác đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu còn né tránh, chạy theo thành tích và không thực chất; công tác kỷ luật đảng thiếu nghiêm minh, chưa kịp thời đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất, có những đảng viên được khen thưởng sau đó bị kỷ luật,… Điều này thể hiện tinh thần nhất quán trong chỉ đạo của Đảng về tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng, góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
 
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên cũng là một điểm nhấn quan trọng được đưa ra trong Nghị quyết nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nước ngoài còn thấp, thậm chí có một số nơi còn tình trạng “trắng” đảng viên. Để nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên, Nghị quyết đã nêu ra yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng. Đây là giải pháp rất cần thiết nhằm khắc phục những điểm lạc hậu, bất hợp lý trong chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới; đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; đồng thời góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người cán bộ khi đứng trong hàng ngũ của Đảng.
 
Đặc biệt, Nghị quyết 21 đã nhấn mạnh việc lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên; phát huy vai trò của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp trên cơ sở đang cư trú tại địa phương,…
 
Nghị quyết số 21-NQ/TW có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ tác động trực tiếp đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà còn tác động đến cả quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị của đất nước và nâng cao đời sống của nhân dân. Để Nghị quyết đi vào cuộc sống, bên cạnh việc học tập, quán triệt đầy đủ, sâu sắc, thì vấn đề quan trọng nhất và có tính yếu quyết định vẫn là ở khâu tổ chức thực hiện. Điều này đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cần phải năng động, đổi mới, sáng tạo trong cách làm; đồng thời biết phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Qua đó góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
 
VĂN NHÂN