Thái Y viện - Nha môn khám chữa bệnh trong hậu cung qua tài liệu Mộc bản triều Nguyễn

09:02, 25/02/2016

Dưới triều Nguyễn, Thái Y viện trong hậu cung là một Nha môn có chuyên trách chăm sóc sức khỏe cho vua và hoàng thân quốc thích, cung tần, mỹ nữ cùng quan lại trong triều đình. Thái Y viện được thành lập vào năm Gia Long thứ nhất (1802); đến năm 1804, cơ bản được hoàn thành. Ban đầu, Thái Y viện được xây dựng ở phường Dưỡng Sinh trong Kinh thành;

Dưới triều Nguyễn, Thái Y viện trong hậu cung là một Nha môn có chuyên trách chăm sóc sức khỏe cho vua và hoàng thân quốc thích, cung tần, mỹ nữ cùng quan lại trong triều đình. Thái Y viện được thành lập vào năm Gia Long thứ nhất (1802); đến năm 1804, cơ bản được hoàn thành. Ban đầu, Thái Y viện được xây dựng ở phường Dưỡng Sinh trong Kinh thành; năm Minh Mạng dời về phía đông Duyệt Thị đường, trong Tử Cấm Thành. Năm Đồng Khánh thứ nhất (1886), nhà Dục Đức được chọn là cơ sở làm việc mới của Thái Y viện vì viện cũ sau khi xảy ra loạn lạc đã bị đốt phá. 
 
Mộc bản sách Đại Nam thực lục, quyển 6 khắc về bộ máy tổ chức nhân sự của Thái Y viện dưới triều vua Minh Mạng
Mộc bản sách Đại Nam thực lục, quyển 6 khắc về bộ máy tổ chức nhân sự của Thái Y viện dưới triều vua Minh Mạng

Dưới triều vua Gia Long, bộ máy tổ chức của Thái Y viện còn sơ sài, đơn giản. Đến năm 1820, khi vua Minh Mạng lên ngôi, cơ cấu bộ máy Thái Y viện mới được hoàn chỉnh dần, đứng đầu là quan chính ngự y (hàm chánh ngũ phẩm), cấp phó có 2 người quan Phó ngự y (hàm tòng ngũ phẩm), tiếp đến là các quan y chính (12 người, hàm chánh thất phẩm, bát phẩm và cửu phẩm), quan y phó (12 người, hàm tòng thất phẩm, bát phẩm và cửu phẩm), dưới quan y chính là quan chính y sinh (12 người, hàm chánh cửu phẩm) và phó y sinh (30 người, hàm tòng cửu phẩm); ngoại khoa, có 20 người, gồm y chính (2 người, hàm chánh bát phẩm), phó y chính (2 người, hàm tòng bát phẩm) và quan y sinh (16 người, hàm tòng cửu phẩm). Năm 1829, niên hiệu Minh Mạng thứ 10, người đứng đầu Thái Y viện được nâng lên chức Viện sứ hàm Chánh tứ phẩm. Đến năm 1833, thì đặt thêm chức Viện phán, giữ công việc ghi chép sổ sách, công văn.
 
Chức năng chính của Thái Y viện là: “Phàm việc phân biệt hư, thực, âm, dương và phép gốc, ngọn, sau, trước, những sự có liên quan đến thuốc thang đều giao cho viện Thái Y cả”. 
 
Với tầm quan trọng của một cơ sở chăm sóc sức khỏe đặc biệt là cho thiên tử (con trời) nên việc tuyển chọn thầy thuốc vào Thái Y viện được công bố rộng rãi và không tuân theo một luật lệ nhất định nào cả. Những ai đã từng học nghề thuốc và hành nghề thầy lang giỏi dù ở hoàn cảnh nào, không kể nguồn gốc xã hội cũng đều có thể xét hạch vào tổ chức Thái Y viện thông qua việc tuyển chọn các Ngự y.
 
Bản khắc về dụ của vua Tự Đức năm 1852 cho biết: “Truyền chỉ cho các quan địa phương, đều xét hỏi trong hạt, có người nào quen nghề làm thuốc, được mọi người khen là xuất sắc ở trong hạt, thì mỗi tỉnh chọn kỹ, lấy 1 đến 2 người, kê rõ họ tên, tuổi, quê quán, rồi tư giao cho bộ Lễ, hội lại làm danh sách tâu lên. Lại hậu cấp tiền lộ phí, cấp giấy cho đến Kinh chờ đợi, rồi giao cho viện Cơ Mật, Nội các, xứ Thị vệ hội đồng sát hạch, chia hạng tâu lên, đợi Chỉ bổ dụng cho rộng nghề làm phúc. Nếu quan tỉnh để cho họ giấu giếm, trốn tránh, đến nỗi bỏ sót người giỏi, khi phát giác ra thì có lỗi không phải nhỏ”.
 
Lịch trình làm việc của Thái Y viện được tuân thủ theo quy định hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Viện sứ và ngự y ngày đêm cắt lượt nhau chầu trực phòng khi có việc cần đến, còn các thuộc viên cũng đều túc trực ở viện để phụ giúp. Nếu trường hợp vua đi ngự tuần xa, thì Thái Y viện sẽ cử người mang theo thuốc thượng phương theo hầu, phòng khi vua gặp trường hợp bất trắc.
 
Việc khám bệnh và dâng thuốc cho nhà vua được thực hiện thường xuyên và hết sức cẩn trọng. Không phải người nào trong Thái Y viện cũng được đến khám và chữa bệnh cho vua. Chỉ có những người am hiểu về mạch lý, phương pháp chữa bệnh rõ ràng, hiệu quả thì mới được cấp bài ngà vào ngự chẩn. Ngự y tham gia khám chữa bệnh cho vua, có khi chỉ 1 người, có khi 2 đến 4 người, hoặc nhiều hơn, tùy theo bệnh trạng. Người khám bệnh được chỉ định có thể là quan Ngự y, cũng có thể là các quan khác am tường về y thuật. Nhưng cũng có khi thầy thuốc không phải là người của Thái Y viện mà là một vị quan hay thầy lang ở ngoài. Những người xem mạch cho vua thường được chọn trước. Như năm Minh Mạng thứ 19 (1838) chuẩn lời tâu: “Y chính viện Thái Y là Đặng Văn Giảng, Trần Duy Huân đều là người cẩn hậu, cấp cho bài ngà để vào cung xem mạch”. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) thì chọn Y chính Hoàng Đức Hạ, Y phó Nguyễn Văn Đường; thời Tự Đức chọn Nguyễn Tất Cát, Lê Quang, đều là người lão thành, am hiểu mạch, được đeo bài ngà vào cung xem mạch.
 
Sau khi Ngự chẩn xong, Ngự y phải giải thích chứng bệnh cho vua biết. Sau đó trở về viện họp bàn trị bệnh và kê đơn thuốc làm giấy dâng lên. Nếu được vua bằng lòng dùng thì lập tức bào chế vị thuốc tinh khiết, thượng hạng, có công hiệu cao trong việc chữa bệnh. Trước khi cung tiến thuốc lên, thuốc đã được đường quan ở Viện và Nội các xem xét, kiểm tra kĩ lưỡng. Nguồn thuốc này chủ yếu dựa vào chế độ thu thuế bằng dược liệu. Vua có quy định cho các địa phương nộp thuế bằng dược liệu theo từng loại vốn là thế mạnh “đặc sản” của từng địa phương, đồng thời định lượng số lượng thuốc phải nộp tính theo đầu người. Ngoài ra nguồn dược liệu còn do các Đông y, Thái Y viện tìm cách mua của Trung Quốc thông qua các nhà buôn thuốc người Hoa kiều. Các y quan làm nghề thuốc, cứ 2 năm triều Nguyễn có chế độ định kỳ kiểm tra chất lượng và năng lực chữa bệnh. Các Ngự y trong Thái Y viện nếu chữa được khỏi bệnh cho người trong hoàng cung, đặc biệt là bệnh của vua thì vinh quang nhận được cũng ít ai sánh bằng. Khi dùng ngọc dược mà bệnh tình thuyên giảm, vua vui mừng ra sắc lệnh ban khen: “Thái Y viện dâng thuốc Ôn tạng hoàn, gần đây, ta dùng thuốc ấy có hiệu nghiệm, thực hay trị được chứng giun để trừ bệnh hoạn tâm phúc. Đáng khen là thuốc hay”. Vua Minh Mạng lập tức ban thưởng hậu đãi cho các Ngự y kỷ lục và tiền vàng, tiền bạc theo thứ bậc khác nhau. Ngoài ra, các quan Ngự y có công lớn cũng được thăng chức hàm: “Nguyên y phó Thái Y viện là Đặng Văn Chức, văn học khá thông, biết nghề chữa bệnh, làm việc đắc lực. Vậy gia ân thăng bổ Đặng Văn Chức làm Tả viện phán”.
 
Còn vua Thiệu Trị vào năm 1847 cũng có Chỉ dụ: “Lần này hoàng tử lên đậu mùa, bệnh được tốt lành. Vậy gia ân cho những người trông coi việc thuốc thang là y chính Nguyễn Văn Hạnh được thăng thụ chức Hữu viện phán, Đoàn Công Loan cho chuyển bổ làm Tả viện phán”.
 
Nhưng cũng có lần vì sơ suất mà Thái Y viện dâng thuốc lên, trong thuốc lại có mọt. Khi Nội giám xét ra, tâu lên thì Y chính Đoàn Văn Hòa, Nguyễn Tăng Long đều bị giáng 4 cấp. Cũng có khi Thái Y viện kê thuốc không hiệu quả, vua Minh Mạng xuống dụ quở trách Cơ Mật viện là Nguyễn Kim Bảng và Trương Đăng Quế: “Từ nay, bản tâu về đơn thuốc do Thái Y viện dâng, các ngươi nên xét kỹ xem bài thuốc có hợp không. Phàm tôi con đối với vua cha khi có bệnh, không thể không biết đến bài thuốc, huống chi các ngươi đều là đại thần?”.
 
Trường hợp nặng hơn, nếu vua uống thuốc mà vẫn trọng bệnh, chẳng may bị chết, ngay lập tức các quan ngự y trở thành kẻ phạm tội, bị bắt tống giam, Mộc bản sách Đại Nam thực lục đệ tam kỷ, quyển 163 có chép: “Giam hai thầy thuốc là Hoàng Đức Hạ và Đặng Công Tuấn vào ngục. Khi trước, Thánh tổ Nhân hoàng đế yếu nặng, bọn Hạ chữa thuốc không có công hiệu, đưa xuống đình thần bàn xét, đều nói là: bọn Hạ biết mà không nói, là bất trung; dám tự theo ý mình, là bất kính. Tội bất trung và bất kính không gì to bằng. Xin khép vào tội trảm giam hậu”. 
 
Mãi đến khi vua mới đăng quang là Thiệu Trị, vua xét rõ tội mới cho giảm án: “Bọn Hoàng Đức Hạ giữ việc chữa thuốc, ta vẫn thường gọi vào thăm bệnh, khi xem mạch hỏi bệnh, trông khí sắc, nghe tiếng nói, không phải là không kỹ, kê dâng phương thuốc không phải là không hiểu,... Theo lời đình nghị, giảm tội xuống, điều đi làm việc đồn điền ở trên nguồn”.        
                                          
Như vậy, có thể thấy cuộc sống của các Ngự y ngày đêm chăm lo sức khỏe cho Nội cung quả đúng với câu “làm bạn với vua như làm bạn với hổ”. Trách nhiệm công việc mà các Ngự y gánh vác thật nặng nề; hầu hết trong số họ khi vào khám chữa bệnh cho vua đều mang một tâm thế sợ hãi. Nhưng vì ý thức “sức khỏe là vàng” nên các Ngự y trong Thái Y viện cũng đã cố gắng làm hết chức phận của họ được giao.
 
THƠM QUANG - HỒNG LOAN