Gốm mộc Chu Ru

04:01, 11/01/2021

Thuở hưng thịnh, nhiều thương buôn người Lào, người Campuchia dùng voi chở lúa, ngô, đồ sắt, vòng cườm... sang K'răng Gọ (xã Próh, huyện Đơn Dương) đổi gốm mộc Chu Ru về dùng.

Thuở hưng thịnh, nhiều thương buôn người Lào, người Campuchia dùng voi chở lúa, ngô, đồ sắt, vòng cườm... sang K’răng Gọ (xã Próh, huyện Đơn Dương) đổi gốm mộc Chu Ru về dùng.
 
Nghệ nhân Ma Li giới thiệu các sản phẩm gốm mộc Chu Ru.
Nghệ nhân Ma Li giới thiệu các sản phẩm gốm mộc Chu Ru.
 
Một thời vang bóng
 
Chừng hơn 20 năm trở lại đây, do thay đổi tập quán canh tác, cũng như ảnh hưởng môi trường xã hội, nghề làm nồi đất của người Chu Ru càng ngày càng mai một và đứng trước nguy cơ thất truyền. Nhưng những ký ức về gốm mộc Chu Ru thì đầy vang vọng, ngân lên niềm kiêu hãnh của một thời chưa xa. “Xưa kia, K’răng Gọ vui lắm! Nhà nào cũng có nồi đất. Người nào cũng biết làm nồi đất”, Nghệ nhân Ma Li, một trong vài nghệ nhân gốm còn lại của K’răng Gọ, chia sẻ.
 
Trong mắt người nghệ nhân già này, gốm ở K’răng Gọ hiện rõ vết nét tâm linh người Chu Ru. Sự mai một chỉ là tạm thời. Ánh lửa rơm cháy, củi cháy, ngô cháy và mùi lửa nung gốm còn âm ỉ đâu đó, đợi ngày thức giấc. Màu lửa gốm K’răng Gọ trở thành cảm xúc riêng, cất chứa bao câu chuyện về đời sống nông nghiệp, về phát triển kinh tế, về sắc màu văn hóa Chu Ru. “Trước đây, vào mùa khô, từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau, ngày nào ở K’răng Gọ cũng có người nặn gốm, có nhà phơi gốm. Đàn ông thì tất bật gùi đất, kiếm củi, thắp lửa. Đàn bà thì gò lưng sàng đất, nhào đất, nặn gốm để đổi chiêng, ché, thổ cẩm với người Mạ, người K’Ho và đổi gạo, đổi muối với người Kinh. Gốm mộc Chu Ru còn theo những thương buôn người Ê Đê, Ba Na sang tận Buôn Ma Thuột, Pleiku. Cũng có những thương buôn người Lào, người Campuchia mang vật phẩm đến K’răng Gọ để đổi lấy gốm mộc Chu Ru về dùng, bán... K’răng Gọ và gốm mộc Chu Ru theo các thương buôn ngược xuôi vang danh khắp vùng”, nghệ nhân Ma Bi, chị gái ruột của nghệ nhân Ma Li, cho biết.
 
Theo nghệ nhân Ma Bi, cách thức mua bán gốm cũng rất đơn giản, chỉ mang tính ước lượng tương đối, chứ ít khi tính toán chi li. Nếu là gạo, cứ đong đầy sản phẩm gốm, rồi bên này lấy gạo, bên kia lấy gốm. Nếu là vật phẩm quý, sẽ căn cứ vào độ tinh xảo của gốm để trao đổi. Nghề gốm, chứ không phải nghề nào khác, đã đem lại sự thịnh vượng cho người Chu Ru.
 
Nghệ nhân Ma Bi dùng nồi đội nước.
Nghệ nhân Ma Bi dùng nồi đội nước.
 
Nỗ lực thắp lại lửa gốm
 
Thoáng chốc K’răng Gọ vắng hoe. Cơn bão đồ nhựa, đồ nhôm, đồ gang, đồ inox, thủy tinh cao cấp... ập tới đã quét đồ gốm Chu Ru ra khỏi gác bếp. Thế là nghề nặn nồi đất, sinh kế một thời của người Chu Ru, cứ xa dần, xa dần. K’răng Gọ giờ đây chỉ còn hai chị em Ma Bi và Ma Li duy trì nghề nặn gốm. Như một định nghiệp, cứ có thời gian rảnh rỗi, hai chị em Ma Bi và Ma Li lại lên núi K’Lơr lấy ít đất về nặn gốm cho đỡ nhớ nghề, thi thoảng bán một vài sản phẩm gốm cho khách du lịch để thêm thắt chút mắm muối, chứ tập trung làm gốm không thì không đủ trang trải cuộc sống. “Sản phẩm gốm làm ra không có nơi tiêu thụ. Đó là nguyên nhân chủ yếu của việc ở K’răng Gọ hầu như không nhà nào còn đỏ lửa duy trì nghề làm gốm mộc không cần bàn xoay rất độc đáo này”, Linh mục Phêrô Trần Quốc Hưng Long, Quản xứ Giáo xứ Ka Đơn, nơi cách K’răng Gọ một quãng ngắn, kể lại thời điểm năm 2014, khi chuẩn bị khánh thành Nhà thờ Ka Đơn mới thì thấy trong nhà kho cũ khá nhiều vật dụng bằng gốm có hình thái đặc biệt.
 
Thế là Giáo xứ Ka Đơn bàn bạc với các nghệ nhân còn giữ nghề gốm việc khôi phục lại nghề gốm cổ truyền của người Chu Ru. Cùng với những mẫu mã gốm truyền thống, Giáo xứ Ka Đơn còn thiết kế thêm những đồ dùng và những vật phẩm trang trí mới. Từ đó, mẫu mã gốm mộc Chu Ru đã đa dạng hơn, tính ứng dụng cũng cao hơn và dễ đi vào đời sống. Nhà thờ Ka Đơn dành hẳn một không gian rộng để trưng bày và bán sản phẩm gốm mộc Chu Ru. Nghề nặn đất, nung gốm của người Chu Ru dần phục hồi và nối truyền. “Để người dân giữ lại nghề thì trước hết phải làm cho họ sống được bằng nghề. Số tiền mà Giáo xứ Ka Đơn mua các sản phẩm gốm mộc Chu Ru tuy ít ỏi nhưng là niềm vui, cũng là động lực để người Chu Ru tiếp tục gắn bó với nghề của tiên tổ”, Linh mục Phêrô Trần Quốc Hưng Long cho hay.
 
Bây giờ, với sự đa dạng về kiểu dáng và phong phú về hình thái, sản phẩm gốm mộc Chu Ru có thể dùng trong nhà bếp, trên bàn ăn, sử dụng ở nơi thờ tự, thậm chí là điểm nhấn sang trọng cho các thiết kế nội thất, ngoại thất và sân vườn.
 
Hi vọng
 
Linh mục Phêrô Trần Quốc Hưng Long hào hứng: “Gốm ở đây có tiếng vang rất lạ so với gốm những nơi khác”, vừa nói vị cha xứ vừa gõ gõ lên nồi gốm và nói tiếp: “Tiếng vang rất thanh và xa, nghe như tiếng vang của kim loại, chứ không phải tiếng vang của đất nung”. Ông Phùng Quốc Minh, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đơn Dương, nói thêm: “Có lẽ chất đất ở K’răng Gọ, với những hạt li ti óng ánh màu kim loại, tạo cho tiếng vang của gốm trở nên đặc biệt. Gốm làm từ loại đất này, càng nung càng chắc, không hề nứt, hay vỡ”.
 
Theo nghệ nhân Ma Li, làm ra một sản phẩm gốm phải trải qua nhiều công đoạn. Trước tiên, chọn và lấy đất. Sau đó, phơi, giã, sàng để loại bỏ tạp chất và giữ lại phần đất sạch. Tiếp theo, mang phần đất sạch trộn với một lượng nước vừa đủ ướt, rồi dùng tay nhồi liên tục cho khối đất ướt thật quánh và dẻo mịn. Ủ thêm vài ngày cho khối đất đó chín. Bấy giờ, mới vê đất thành từng khối dài, to cỡ bắp tay người lớn, rồi đặt khối đất này lên bàn kê cố định trên chiếc cối giã, bắt đầu tạo hình sản phẩm. Quá trình tạo hình, tay trái đỡ bên trong thân gốm, tay phải dùng tơr nap (bàn đập tạo dáng bằng gỗ) đập bên ngoài thân gốm, tạo cho sản phẩm có sự cân xứng. Tiếp đến là thao tác vuốt nước bên ngoài sản phẩm và đem phơi nắng nửa ngày cho cốt gốm se cứng. Trước khi mang đi nung, nghệ nhân dùng knur (nạo tròn làm từ cật tre) nạo đất phía trong thân gốm cho mỏng đều, cũng như đắp thêm những phần phụ còn thiếu của sản phẩm. Cuối cùng là việc chà láng sản phẩm gốm bằng su bớt (miếng vải nhỏ) và plai kăn (hạt tràm). Ngoài ra, nghệ nhân còn dùng vỏ sò để tạo hoa văn cho sản phẩm, là những nét vạch sâu hoặc những chấm nhỏ viền quanh vai gốm. Xong công đoạn tạo hình, cốt gốm sẽ được mang ra phơi nắng cho khô, chỉnh sửa lại những chỗ chưa vừa ý, rồi xếp các sản phẩm giữa một khoảng đất trống, chất củi khô, rơm rạ lên và châm lửa đốt trong quãng 2 đến 3 giờ thì mẻ gốm hoàn tất. “Xưa, các sản phẩm gốm chỉ có những vật dụng thông thường như Bơlo (nồi nấu bồ kết cho phụ nữ gội đầu), Karơ (bát ăn cơm và uống rượu), Gọrồng (nồi lớn miệng rộng để đựng nước), Gọdăm (nồi trung dùng để nấu cơm), Abũ (nồi đội nước), Gọglah (nồi nấu canh), Karơyơng (bát uống rượu), Bơnhăũn (kiềng bếp), Gọkrẹt (nồi đựng canh)... Nay, các sản phẩm còn có thêm ấm trà, tách trà, bình cắm hoa, hộp đựng gia vị, hộp đứng bánh kẹo, chân đèn thờ, chum đốt hương trầm, tượng...”, nghệ nhân Ma Li phấn khởi.
 
TRIỀU KA