Đẩy nhanh tiến độ chi trả hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19

05:07, 30/07/2021

Nhằm chia sẻ khó khăn, bảo đảm cuộc sống của người lao động trong cả nước, góp phần ổn định xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68 và Quyết định số 23 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19...

Nhằm chia sẻ khó khăn, bảo đảm cuộc sống của người lao động (LĐ) trong cả nước, góp phần ổn định xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 68 và Quyết định số 23 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Để người dân nắm rõ tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 68 tại Lâm Đồng, phóng viên Báo Lâm Đồng đã có cuộc phỏng vấn bà Lê Thị Thêu - Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) xung quanh vấn đề này.
 
Bà Lê Thị Thêu - Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
Bà Lê Thị Thêu - Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
 
PV: Xin bà cho biết, Lâm Đồng đã triển khai thực hiện Nghị quyết số 68 của Chính phủ về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 như thế nào?
 
Bà Lê Thị Thêu: Trước tình hình diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 đã và đang tác động, ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống Nhân dân, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 68 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19. Ngay sau khi Nghị quyết 68 ra đời, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 23 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19; dựa trên các cơ sở này, Sở LĐTBXH đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch 4848 và phối hợp với Sở Tài chính tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định 1900 về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 trên địa bàn.
 
PV: Xin bà cho biết rõ hơn về chính sách hỗ trợ người lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19 vừa được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng gồm những đối tượng cụ thể nào?
 
Bà Lê Thị Thêu: Phạm vi điều chỉnh trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng gồm các đối tượng: Lao động tự do đó là những người lao động không có giao kết hợp đồng lao động cư trú hợp pháp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng bị mất việc làm, không có thu nhập. Cụ thể, gồm những người làm một trong các công việc sau: Người bán hàng rong, buôn bán nhỏ lẻ không có địa điểm cố định; tự làm hoặc lao động làm việc trong các lĩnh vực ăn uống, lưu trú, du lịch, cơ sở làm đẹp (cắt, uốn tóc, làm móng, gội đầu), karaoke, vũ trường, quán bar, phòng trà, rạp chiếu phim, cơ sở massage, xông hơi, điểm kinh doanh trò chơi điện tử, cơ sở tập gym, bi da, yoga, golf, hồ bơi; thu gom rác, phế liệu; bốc vác; lái xe mô tô 2 bánh chở khách (kể cả lái xe công nghệ), lái xe, phụ xe ô tô chở khách, vận chuyển hàng hóa; xe ngựa chở khách; đánh giày, lao động tại các trường mầm non, nhóm trẻ, người bán vé số lưu động. Đối với lao động tự do, trong quá trình thực hiện nếu có phát sinh các đối tượng khác cần hỗ trợ, UBND các huyện, thành phố chủ động sử dụng ngân sách địa phương để hỗ trợ hoặc báo cáo UBND tỉnh để giải quyết.
 
Đối với các đối tượng đặc thù khác tại địa phương, gồm: Người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng gặp khó khăn (bao gồm cả thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng, thương binh đang hưởng chế độ mất sức lao động hàng tháng), có trong danh sách hưởng trợ cấp tháng 7 năm 2021; thương binh, bệnh binh không có lương hưu, không được hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng gặp khó khăn. Đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, có trong danh sách được hưởng trợ cấp xã hội tháng 7 năm 2021. Hộ nghèo, hộ cận nghèo tại địa phương được cấp có thẩm quyền quyết định công nhận.
 
UBND tỉnh đã có Văn bản số 5307 đề nghị các địa phương chủ động tạm ứng ngân sách của địa phương mình để kịp thời chi hỗ trợ cho các đối tượng gặp khó khăn do bị ảnh hưởng dịch COVID-19, với định mức hỗ trợ: đối tượng là cá nhân 1.500.000 đồng/người/lần. Đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo 1.500.000 đồng/hộ/lần. Quyết định cũng nêu rõ, đối tượng người bán vé số lưu động, nguồn từ kinh phí của Công ty TNHH MTV Xổ số kiến thiết Lâm Đồng và hạch toán vào chi phí của Công ty. Các đối tượng còn lại từ nguồn ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Nghị quyết số 68 và các nguồn huy động hợp pháp khác.
 
Chi hỗ trợ đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19
Chi hỗ trợ đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19
 
PV: Nghị quyết số 68 và Quyết định 23 ngày 7/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã có những điểm mới rất quan trọng, về hồ sơ, thủ tục và đối tượng bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19 cũng được mở rộng hơn, vậy xin bà có thể nói rõ hơn về quyết định này?
 
Bà Lê Thị Thêu: Quyết định 23 gồm 11 chương, 46 điều. Tất cả hướng dẫn, quy trình nộp hồ sơ... những đối tượng, doanh nghiệp được hỗ trợ theo Nghị quyết số 68 được hướng dẫn chi tiết trên tinh thần đơn giản hóa tối đa các thủ tục với phương châm thông thoáng nhất để người lao động và người sử dụng lao động tiếp cận dễ dàng nhất nhưng vẫn đúng luật. Các thủ tục để nhận hỗ trợ đều được đơn giản hóa và rút ngắn tối đa thời gian giải quyết hồ sơ. 
 
Quyết định 23 cụ thể hóa một cách chi tiết nhất về cách thức thực hiện, thời gian tiến hành, quy trình giải quyết, cấp nào giải quyết phân cấp phân quyền rõ; đồng thời, đơn giản tối đa các thủ tục hành chính. Về đối tượng, Nghị quyết 68 và Quyết định 23 sẽ tập trung hỗ trợ đối tượng người lao động và người sử dụng lao động để đảm bảo mục tiêu kép vừa phòng, chống dịch vừa phát triển kinh tế. Trong đó, có một số điểm mới so với Nghị quyết 42 và Quyết định 15 như: Giảm thời gian tạm hoãn, nghỉ việc không hưởng lương xuống còn 15 ngày. Bỏ quy định doanh thu kê khai thuế dưới 100 triệu đồng/năm đối với các hộ kinh doanh, chỉ quy định dừng hoạt động từ 15 ngày liên tục trở lên. Giảm điều kiện tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất từ 50% lao động xuống còn 15% lao động.
 
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 68 cũng bổ sung nhiều chính sách mới như: Giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động; hỗ trợ người lao động ngừng việc; hỗ trợ trẻ em, lao động đang mang thai, đang nuôi con nhỏ.
 
Đặc biệt, hỗ trợ đối với người phải điều trị nhiễm COVID-19 (FO) và người phải thực hiện cách ly y tế (F1). Hỗ trợ đối với đạo diễn nghệ thuật, diễn viên, họa sĩ giữ chức danh nghề nghiệp hạng IV trong các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động nghệ thuật biểu diễn (không bao gồm các đơn vị nghệ thuật lực lượng vũ trang) và hướng dẫn viên du lịch. Cho vay trả lương phục hồi sản xuất, kinh doanh.
 
PV: Xin bà cho biết, các chính sách hỗ trợ trên hiện đã được các địa phương trong tỉnh triển khai ra sao?
 
Bà Lê Thị Thêu: Ngay khi có Nghị quyết số 68, Sở LĐTBXH đã triển khai văn bản đến các địa phương nhằm rà soát trước một bước các đối tượng theo Nghị quyết trên. Đồng thời, đã phối hợp với các ngành tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch 4848. Song song với đó, Sở Tài chính chủ trì phối hợp với Sở LĐTBXH thống nhất trình UBND tỉnh ban hành Quyết định 1900. Ngay sau đó, các sở, ngành, địa phương đều có văn bản triển khai Kế hoạch 4848 và Quyết định 1900. Riêng Sở LĐTBXH, với trách nhiệm của ngành đã ban hành các hướng dẫn cụ thể, đồng thời công khai số điện thoại của Ban Giám đốc, lãnh đạo các phòng chuyên môn của Sở để tiếp nhận các phản ánh của người dân, những vướng mắc từ cơ sở để kịp thời giải quyết. Về phía các địa phương, cũng rất chủ động trong công tác rà soát. Cấp ủy, chính quyền các huyện, thành phố luôn chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện về cơ chế để Phòng LĐTBXH phối hợp với các phòng chuyên môn liên quan, UBND cấp xã triển khai thực hiện bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch, không để lợi dụng, trục lợi chính sách.
 
Theo thống kê, tính đến 17 giờ  ngày 29/7/2021, số đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 được chi hỗ trợ, gồm: 1.054 người có công gặp khó khăn được nhận hỗ trợ với số tiền 1.581 triệu đồng; đối tượng bảo trợ xã hội 12.785 người với số tiền 19.177,5 triệu đồng; 9.134 hộ nghèo, hộ cận nghèo với số tiền 13.701 triệu đồng; lao động tự do (trừ người bán vé số lưu động) 51 người với số tiền 76,5 triệu đồng và 172 người bán vé số lưu động, với số tiền 258 triệu đồng. 
 
PV: Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện này!
 
NHẬT MINH