Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982

08:08, 08/08/2013

Hội nghị lần thứ ba của Liên hiệp quốc về Luật biển được tổ chức từ năm 1967 đến năm 1982 (giai đoạn 1967 – 1982 mang tính chất trù bị). Vào năm 1982, Hội nghị thông qua Công ước Luật biển với 320 điều khoản và 9 phụ lục. Công ước quy định quốc gia ven biển có năm vùng biển với phạm vi, chế độ pháp lý khác nhau...

(LĐ online) - Hội nghị lần thứ ba của Liên hiệp quốc về Luật biển được tổ chức từ năm 1967 đến năm 1982 (giai đoạn 1967 – 1982 mang tính chất trù bị). Vào năm 1982, Hội nghị thông qua Công ước Luật biển với 320 điều khoản và 9 phụ lục. Công ước quy định quốc gia ven biển có năm vùng biển với phạm vi, chế độ pháp lý khác nhau. Đối với một số vùng thì quốc gia ven biển có chủ quyền, nhưng có vùng thì quốc gia ven biển chỉ có quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia:

1, Vùng nước nội thủy: là vùng nước nằm phía bên trong con đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền. Chủ quyền ở đây được hiểu là quyền đặc thù của một quốc gia độc lập, quyền tối cao của quốc gia thực hiện trong phạm vi vùng biển thuộc quốc gia đó. Vùng nước nội thủy bao gồm: các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa sông, các vịnh, các vùng nước nằm giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
 

Tuần tra trên biển
Chiến sỹ Trường Sa tuần tra trên biển. Ảnh: Văn Báu


2, Lãnh hải: Theo Công ước Luật biển năm 1982, lãnh hải là vùng biển có chiều rộng không quá 12 hải lý ở bên ngoài đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ đối với lãnh hải.

Tuy nhiên, chủ quyền dành cho quốc gia ven biển trên lãnh hải không phải là tuyệt đối như trên các vùng nước nội thủy, bởi vì tàu thuyền các nước khác được đi qua không gây hại trong lãnh hải, nhưng các quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu nước ngoài đi qua lãnh hải nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.

3, Vùng tiếp giáp lãnh hải: là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện những thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài. Phạm vi của vùng tiếp giáp không vượt quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở. Công ước Luật biển năm 1982 quy định quốc gia ven biển có quyền tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết tại vùng tiếp giáp, nhằm:

- Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;

- Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trong lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.

Vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định bởi Công ước Luật biển năm 1982 nằm trong vùng đặc quyền về kinh tế, có quy chế đặc biệt, không phải là một vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia mà cũng không phải là vùng biển có quy chế tự do biển cả.

4, Vùng đặc quyền kinh tế: là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới một chế độ pháp lý riêng, theo đó các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như các quyền tự do của các quốc gia khác đều được Công ước Luật biển năm 1982 điều chỉnh. Vùng đặc quyền kinh tế có chiều rộng không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Nói cách khác, chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế là 188 hải lý.

Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, lần đầu tiên được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982. Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng đặc biệt, trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế, được quy định bởi Công ước, mà không chia sẻ với các quốc gia khác. Tuy nhiên, quốc gia ven biển phải yêu sách vùng này bằng một tuyên bố song phương.

Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:

- Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy thềm và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về các hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

- Quyền tài phán về việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.

- Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.

Tuy vậy, trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, đều được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích hợp pháp khác và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do nói trên và phù hợp với các quy định của Công ước, nhất là trong khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay, dây cáp và ống dẫn ngầm.

Quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn, quản lý và duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế không bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Công ước Luật biển năm 1982 còn quy định cụ thể các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác nhằm bảo tồn các loài sinh vật biển như: các loài cá di cư xa, các loài có vú; các đàn cá vào sông và ra biển sinh sản; các loài định cư…

5, Thềm lục địa: là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho đến bờ ngoài của rìa lục địa. Khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở, quốc gia ven biển có thể mở rộng ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2.500 m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý theo đúng các quy định liên quan của Công ước Luật biển năm 1982.

Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình. Đây là những đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển này không thăm dò thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa (bao gồm các tài nguyên phi sinh vật và các tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư), thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của các quốc gia ven biển.

Tuy nhiên khi quốc gia ven biển tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý thì phải có một khỏan đóng góp theo quy định của Công ước. Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia đã được Công ước thừa nhận. Tất cả các quốc gia đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải thỏa thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc cáp.

Bình Nguyên