Trong bài báo viết về công tác dân vận năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Thế nhưng không phải cán bộ nào và thời điểm nào cũng nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của dân vận và thực hiện tốt công tác dân vận.
Lực lượng dân quân hỗ trợ bà con Nhân dân Thôn 5, xã Tam Bố, huyện Di Linh làm sân bê tông. Ảnh: V.Quỳnh |
Hiện nay, công tác dân vận ở một số địa phương, đơn vị chưa thực sự đi vào chiều sâu; việc lồng ghép triển khai nhiệm vụ chính trị với công tác dân vận chưa thật sự hiệu quả. Công tác đào tạo, bố trí cán bộ làm công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức, công tác kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện chưa kịp thời. Một số cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành chưa hiểu rõ công tác dân vận luôn gắn chặt với sự phát triển của địa phương, đơn vị. Việc triển khai các văn bản liên quan đến công tác dân vận còn chậm trễ, chậm cụ thể hóa các văn bản cho phù hợp với tình hình thực tế các địa phương, cơ sở.
Mặt khác, ở một số địa phương cơ sở vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên quan liêu, tham nhũng, xa dân, không lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người dân, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ít nhiều đã làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Vì thế, việc tuyên truyền, thuyết phục Nhân dân còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả công việc của các địa phương, cơ sở. Điều đáng lo nhất, một số ít cán bộ còn “đổ lỗi” cho dân về ý thức, thái độ, sự hợp tác mà không thấy rõ những hạn chế đó phần nhiều từ tổ chức, cán bộ của hệ thống chính trị. Trong thực tế, những lúc gặp khó khăn về vấn đề chấp hành di dời, giải phóng mặt bằng lẽ ra cần xem lại khung giá đền bù, việc bố trí tái định cư ra sao, phương pháp vận động còn chưa tốt lại cho rằng người dân chây ỳ, bất hợp tác. Do những khuyết điểm, sai sót không đáng có đã làm lây lan tâm lý “bất phục” đến những người xung quanh, làm cho việc thu hồi đất trở nên chậm trễ, phát sinh nhiều hệ lụy đáng tiếc, dẫn đến tâm trạng lòng dân không yên. Từ những thực tế nói trên, chúng ta cần nhớ lại câu chuyện lúc Bác Hồ lên thăm Nhân dân ở Khu Hồng Quảng (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) bị bão lụt; sau khi nghe các đồng chí lãnh đạo báo cáo về tình hình khắc phục hậu quả chậm, gặp nhiều khó khăn vì Nhân dân ở đây chậm giác ngộ, không chịu hợp tác tốt với cán bộ Trung ương về ứng cứu. Nghe xong, Bác kể cho các đồng chí nghe câu chuyện. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp ở Thái Nguyên có hai đơn vị bộ đội về đóng quân. Đơn vị thứ nhất bị dân kêu ca, tình hình rất khó khăn, tiền nong thiếu hụt, không mua được gạo, thịt và các nhu yếu phẩm trong dân. Đơn vị thứ hai đến sau cũng đóng quân tại chính địa điểm nói trên nhưng hoàn toàn không có hiện tượng đó. Tình quân dân rất thắm thiết, Nhân dân còn đem măng, chuối, trứng gà đến tận đơn vị tặng cho các chiến sĩ.
Bác Hồ đặt câu hỏi: “Vấn đề là như thế nào?”. Rồi Bác tự trả lời “Tại vì các chú ở đơn vị trước “là quan” rồi nên không chịu làm công tác dân vận, vì thế cái gì cũng bỏ tiền ra mua. Khi mua còn bị người ta làm khó cho. Còn các chú ở đơn vị sau biết cách tổ chức tốt công tác dân vận nên được Nhân dân quý mến, ủng hộ, chăm lo coi như người trong gia đình. Vậy có phải dân ở đó kém giác ngộ và xấu không? Tình hình ở đây cũng vậy thôi, các chú phải xem lại có phải do dân chậm giác ngộ, hay là tại các chú chưa làm tốt công tác dân vận?.
Rõ ràng, câu chuyện trên đây có thể xem là một bài học có tính kinh điển về công tác dân vận, không chỉ trong kháng chiến mà còn cho cả giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này, không chỉ đối với cán bộ làm công tác dân vận mà còn với tất cả các cán bộ trong hệ thống chính trị cần phải học tập và làm theo.
Qua câu chuyện nói trên và bài học dân vận của Bác Hồ, chúng ta có thể thấy công tác dân vận chính là một nghệ thuật. Bởi vì, trong các điều kiện như nhau, nếu chúng ta tổ chức thực hiện khác nhau thì kết quả sẽ khác nhau. Tuy vậy vẫn phải có những vấn đề có tính nguyên tắc, tạo điều kiện cho các tổ chức và cán bộ, đảng viên phấn đấu thực hiện đạt kết quả tốt hơn.
Đó là phải thực sự gần dân, gắn bó với Nhân dân. Nếu cán bộ, đảng viên tự mình tách xa dân, sẽ rất khó có được sự ủng hộ, đồng lòng, tự giác thực hiện của người dân. Phải tạo ra được sự đồng thuận của cán bộ với dân và hành động của dân cùng trở thành hành động chung của đông đảo người dân tham gia, trong đó có cả cán bộ, đảng viên.
Đồng thời, chúng ta phải thực sự chú ý đến lợi ích của Nhân dân. Lợi ích là một yêu cầu rất quan trọng, cần thiết được quan tâm và bảo đảm một cách hài hòa, phù hợp. Ngoài ra, luôn tạo điều kiện, khơi gợi tinh thần trách nhiệm, sự hăng hái của Nhân dân. Cần xem Nhân dân là chủ thể năng động, tích cực, giàu năng lượng chứ không phải là đối tượng thụ động, chịu tác động.
Mặt khác, chúng ta phải tiến hành nhiều giải pháp, phương thức linh hoạt với các nhóm đối tượng khác nhau. Do nhận thức, lợi ích, thái độ của các nhóm khác nhau, vì thế cách thức vận động cũng phải khác nhau. Hơn nữa, cần biết phối hợp nhiều cơ quan, đơn vị xem công tác dân vận là của cả hệ thống chính trị. Do đó, cần đề cao sự gương mẫu, tiên phong của cán bộ, đảng viên cùng có chung bối cảnh, điều kiện, lợi ích với Nhân dân. Cá biệt, trong một số trường hợp, cán bộ, đảng viên có thể hy sinh quyền lợi riêng của mình, chính điều đó sẽ có giá trị thuyết phục các nhóm chủ thể khác.
Sắp tới, tỉnh ta đang triển khai thực hiện nhiều phong trào, cuộc vận động đòi hỏi có sự tham gia chủ động, tích cực của các tầng lớp Nhân dân như hiến đất mở rộng đường, xây dựng đường cao tốc từ Tân Phú đến Liên Khương, cũng như xây dựng nông thôn mới, chương trình giảm nghèo đa chiều... đã và đang đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền địa phương ngoài việc làm tốt công tác tuyên truyền, cần đẩy mạnh các hoạt động dân vận một cách linh hoạt, khôn khéo nhằm tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội, khơi dậy được tiềm năng, nguồn lực to lớn của Nhân dân cùng Đảng bộ tỉnh nhà nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu, nhiệm vụ về kinh tế - xã hội năm 2024.
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin