Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tự tích lũy, trau dồi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, rút ra những bài học cách mạng quý báu để trở thành nhà lãnh đạo, nhà lý luận trẻ tuổi xuất sắc của Đảng ta.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tự tích lũy, trau dồi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, rút ra những bài học cách mạng quý báu để trở thành nhà lãnh đạo, nhà lý luận trẻ tuổi xuất sắc của Đảng ta.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9/7/1912 trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1925, đồng chí Nguyễn Văn Cừ tốt nghiệp Trường sơ học Kiêm bị Pháp - Việt tại thị xã Bắc Ninh và thi đỗ vào trường Bưởi (nay là Trường Trung học phổ thông Chu Văn An - Hà Nội). Tại đây, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nhanh chóng tiếp xúc với nhiều tài liệu sách báo cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài gửi về, như: Người cùng khổ, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách mệnh và đã hăng hái tham gia vào các phong trào yêu nước của sinh viên chống thực dân Pháp, được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Thông qua các phong trào đấu tranh yêu nước này, đồng chí đã bắt gặp và giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, ngày càng hiểu sâu sắc những tư tưởng lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong các tác phẩm trên và đã giải đáp được những suy nghĩ, nguyện vọng, tâm tư tình cảm mà bấy lâu nay đồng chí vẫn ấp ủ trong lòng. Từ đó, đồng chí hòa mình vào cuộc sống của người lao động, trực tiếp là người chỉ đạo phong trào công nhân và phong trào cộng sản ở vùng mỏ Đông Bắc, thấy rõ được nỗi cùng khổ của anh chị em công nhân mỏ, Nguyễn Văn Cừ càng thấy phải có trách nhiệm trước sinh mệnh của họ, càng phải hăng say tìm đủ mọi hình thức, tổ chức nhiều cuộc mít tinh kêu gọi công nhân lao động mỏ đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Nhưng điều quan trọng hơn, đồng chí ý thức được sức mạnh, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, từ đó trực tiếp chỉ đạo và là người biên tập chính tờ báo Than nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tờ báo là nguồn động viên, cổ vũ và hướng dẫn quần chúng đứng lên đấu tranh chống chế độ áp bức bất công của thực dân Pháp, ủng hộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cũng từ đây, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bước vào con đường hoạt động cách mạng chuyên nghiệp, được kết nạp vào Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng và trở thành cán bộ Đảng cốt cán đầu tiên ở vùng than Đông Bắc.
Giữa lúc phong trào cách mạng vùng mỏ đang phát triển mạnh mẽ thì ngày 15/2/1931 đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị Mật thám Pháp bắt, xử án tù chung thân và đưa đi đày ở nhà tù Côn Đảo. Tại nhà tù Côn Đảo, mặc dù dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp nhằm tiêu diệt ý chí cách mạng của những chiến sỹ cộng sản, nhưng đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng với các đồng chí của ta đã biến nhà tù đế quốc thành “Trường học Cộng Sản”. Từ trong ngục tối, các đồng chí cộng sản đã cùng nhau nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin như: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Hai sách lược của Đảng, Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào công nhân, Nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của mình, đồng chí đã nhận thức và hiểu sâu sắc nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chính từ đây, đồng chí đã tích lũy, trau dồi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, rút ra những bài học cách mạng quý báu để trở thành nhà lãnh đạo, nhà lý luận trẻ tuổi xuất sắc của Đảng ta.
Năm 1938, với cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí đã có những chỉ đạo thay đổi chiến lược cách mạng, tạo ra bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1938-1942, mà cụ thể là quyết định rút ngay số cán bộ hoạt động công khai vào hoạt động bí mật, phân công một số đồng chí cán bộ đi xây dựng căn cứ ở địa bàn chiến lược, chuẩn bị cơ sở cho cuộc đấu tranh vũ trang khi có điều kiện. Hiện nay, khi nhìn lại những diễn biến lịch sử, chúng ta càng khâm phục quyết định chuyển hướng chiến lược và thay đổi phương pháp cách mạng trong tình hình mới của Đảng ta tại Hội nghị Trung ương 6 (11/1939) là hết sức sáng suốt, thể hiện tư duy nhạy bén, năng lực sáng tạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mà đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, nhờ đó phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh mẽ theo chiều hướng mới, lực lượng cách mạng cũng tránh được tổn thất lớn khi kẻ địch trở mặt đàn áp, góp phần đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám lịch sử.
Trên phương diện đấu tranh củng cố nội bộ, tháng 6/1939 với bút danh Trí Cường, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết và cho in cuốn “Tự chỉ trích” với mục tiêu là góp phần vào cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng nhằm bảo đảm tính đúng đắn về đường lối và sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và trong phong trào cách mạng, đặc biệt là đưa ra nguyên lý phê bình và tự phê bình trong nội bộ Đảng nhằm củng cố và xây dựng Đảng. Đồng chí nêu rõ: "Tự chỉ trích Bônsơvích là để giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng càng được thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng...". Cũng theo đồng chí Nguyễn Văn Cừ: "Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng, chửi rủa vu cáo cho Đảng, không sợ "nối giáo cho giặc". Trái lại, nếu "đóng kín cửa bảo nhau", giữ cái vỏ thống nhất mà bề trong thì hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa; hơn nữa, đó tỏ ra không phải một đảng tiền phong cách mạng, mà là một đảng hoạt đầu cải lương".... Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ yêu cầu Đảng phải “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng mà làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ” và kêu gọi “Thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động”, “Củng cố hàng ngũ để chóng thực hiện thống nhất các lớp nhân dân”. Trong lời kết của “Tự chỉ trích” đồng chí đã để lại một kinh nghiệm hết sức quý báu cho Đảng “Chúng ta đã phải chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ, xu hướng “tả khuynh”, cô độc nó muốn làm Đảng co bé, rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng và xu hướng thỏa hiệp “hữu khuynh”, lung lay trước tình hình nghiêm trọng nhãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền của Chủ nghĩa Mác - Lênin, lăm le rời bỏ nguyên tắc cách mệnh”.
Tác phẩm là văn kiện tổng kết những kinh nghiệm phong phú về việc thực hiện chính sách mặt trận của Đảng, thể hiện tầm nhìn chiến lược; nó không chỉ có giá trị củng cố niềm tin, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng lúc bấy giờ, mà còn có giá trị thực tiễn to lớn, là cẩm nang của Đảng trong mọi thời kỳ về xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất và sức chiến đấu của Đảng, nhất là trong công cuộc đổi mới, hội nhập hiện nay. Do đó, những quan điểm, lời tâm huyết về “Tự phê bình và phê bình” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ trong “Tự chỉ trích” đến nay vẫn còn mang tính thời sự sâu sắc, cần được vận dụng trong tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong các cơ quan, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên về thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Vương Tôn Kiên - Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lâm Đồng