Khát vọng về một nền độc lập tự do cho Tổ quốc

04:02, 15/02/2013

Cùng với quá trình chuẩn bị, ta mở đợt hoạt động tác chiến Thu Đông 1967 đánh bồi vào quân Mỹ và đồng minh, phá sự chuẩn bị mùa khô của địch, đẩy chúng vào thế bị động hơn, buộc địch phải phân tán lực lượng, trực tiếp tạo thế, tạo lực tạo thời cơ cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn nhằm giành thắng lợi quyết định...

1. Chuẩn bị và nghi binh "lừa địch"

Sau thất bại thảm hại trong chiến dịch mùa khô 1966-1967, Giôn-xơn liều lĩnh quyết định đưa thêm 10 vạn quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Đầu năm 1968, số quân chiến đấu của Mỹ ở miền Nam đã vượt quá nửa triệu tên chưa kể sự yểm trợ của trên 20 vạn quân Mỹ có mặt ở Thái Lan, Phi-lip-pin, Nhật Bản, Guam, Hạm đội 7, cùng với gần 60 vạn quân Nguỵ Sài Gòn, gần 7 vạn quân đồng minh của Mỹ.

Về phía ta, để thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, các chiến trường ở miền Nam gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa, chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị lực lượng, xây dựng phương án tác chiến và phương án phát động quần chúng nổi dậy, đảm bảo hậu cần tiếp tế, thông tin liên lạc; chuẩn bị cơ sở giấu ém lực lượng và bàn đạp xuất phát tiến công ở vùng ven và trong các đô thị trên toàn miền Nam.

Cùng với quá trình chuẩn bị, ta mở đợt hoạt động tác chiến Thu Đông 1967 đánh bồi vào quân Mỹ và đồng minh, phá sự chuẩn bị mùa khô của địch, đẩy chúng vào thế bị động hơn, buộc địch phải phân tán lực lượng, trực tiếp tạo thế, tạo lực tạo thời cơ cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn nhằm giành thắng lợi quyết định.

Kỷ niệm 45 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Sở VH-TT-DL TPHCM và Trung tâm Bảo tồn và phát huy giá trị di tích TP đã tiến hành tu bổ, tôn tạo 4 di tích quốc gia có liên quan trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: Hầm bí mật in tài liệu của Ban Tuyên huấn Hoa vận, cơ sở Ban Tuyên huấn Xứ uỷ Nam bộ, Sở Chỉ huy tiền phương Phân khu 6 và cơ sở vũ khí bí mật của biệt động thành đánh Dinh Độc Lập năm 1968.

Trong đợt này, ở vùng ven đô thị và nông thôn đồng bằng, lực lượng ta được lệnh duy trì hoạt động như thường lệ để không gây sự chú ý đề phòng của địch. Ở vòng ngoài, ta mở các chiến dịch quy mô tương đối lớn tại các khu vực rừng núi nhằm phân tán chủ lực địch.

Trước sức tiến công và công tác nghi binh, lừa địch của ta, tất cả các lực lượng chủ lực của địch từ chuẩn bị phản công để giành quyền chủ động chiến trường phải quay về phòng ngự bị động chống đỡ. Lực lượng của chúng bị căng ra, kế hoạch quân sự và thế bố trí lực lượng trên chiến trường bị đảo lộn, vỡ từng mảng. Điều này càng tạo ra sơ hở trong thế phòng ngự, bị động của chúng để ta triệt để khoét sâu.

Để tiếp tục nghi binh, căng kéo lực lượng của địch, đẩy chúng tiếp tục bị động về chiến lược, ta và bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc ở Thượng Lào, chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh.

Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, hướng phối hợp đặc biệt quan trọng diễn ra trước Tết Mậu Thân 10 ngày đã dội về nước Mỹ như một tiếng sét kinh hoàng. Khe Sanh đã khiến nước Mỹ lo lắng về một "Điện Biên Phủ mới". Giôn-xơn lệnh cho các tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải cam kết giữ Khe Sanh bằng mọi giá; 40% các tiểu đoàn chiến đấu Mỹ ở miền Nam được dồn vào khu vực Trị - Thiên.

2. Diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968

Các hoạt động nghi binh, đặc biệt chiến dịch Khe Sanh đã làm cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam và giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn bị lạc hướng. Trong khi họ dồn toàn trí và lực lượng ra hướng Đường 9 - Khe Sanh và nhận định Khe Sanh là chiến trường chính, thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy bất ngờ diễn ra ở một loạt đô thị trên toàn miền Nam.

Trước tết, miền Bắc công bố lịch mới, Tết Nguyên đán Mậu Thân sớm một ngày so với lịch cũ. Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị lui cuộc Tổng tiến công lại một ngày để thống nhất hành động giờ G trên toàn chiến trường. Tuy nhiên, ở Khu V và Tây Nguyên, lực lượng của ta đã ém sẵn không rút ra hoặc giấu quân tại chỗ an toàn được, nên đã đề nghị cho nổ súng vào đêm 28 rạng ngày 29/1/1968 (tức đêm 29 tháng Chạp năm Đinh Mùi), trước tết giao thừa (theo lịch miền Nam) một ngày. Tỉnh nổ súng sớm nhất là Khánh Hoà. Lúc 23 giờ ngày 28/1/1968, pháo binh ta bắn phá Trung tâm Huấn luyện hải quân nguỵ ở Nha Trang.

Đúng 0 giờ ngày 29/1/1968 (giao thừa theo lịch miền Bắc) ta tiến công địch trong thị xã Tuy Hoà (Phú Yên).

Từ 0 giờ 30 phút đến 1 giờ 15 phút ta đồng loạt tiến công vào thị trấn Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (Kon Tum), thị xã Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc), thị xã Plâycu (Gia Lai), thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An (tỉnh Quảng Đà, Quảng Tín), thành phố Quy Nhơn (Bình Định)... Như vậy, cả dải đất miền Trung đã nổ súng tiến công.

Hôm sau, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968 (tức đêm Giao thừa Tết Mậu Thân theo lịch miền Nam, ngày mùng một Tết theo lịch miền Bắc), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tiếp tục diễn ra khắp các tỉnh và thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bộ binh, đặc công, pháo binh, biệt động ta đánh mạnh, đánh trúng các mục tiêu trọng yếu của địch ở Sài Gòn - Gia Định, Huế, Quảng Trị, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Tây Ninh, Bến Tre, Kiến Tường, Định Tường, Gò Công, Biên Hoà, Mỹ Tho, Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá, Kiên Giang, Tuyên Đức...

Ngày 31/1 và 1/2/1968, quân dân ta tiếp tục tấn công vào Sài Gòn, Huế, Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Kiến Tường, Long Khánh và nhiều nơi khác.
Trong khí thế sôi sục Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam Việt Nam thành phố Huế, Sài Gòn - Gia Định ra đời. Uỷ ban lãnh đạo toàn quốc của Liên minh đã ra lời kêu gọi "quốc dân đồng bào", "không chịu tủi nhục vì mất nước", "không thể tiếp tục cảnh tôi đòi", hãy "đứng lên giành chính quyền, giành độc lập, hoà bình, tự do và cuộc sống trong sạch, ấm no".

Lời kêu gọi của Liên minh đã thôi thúc mọi tầng lớp nhân dân cả thành thị và nông thôn nổi dậy, sát cánh cùng với quân giải phóng, lực lượng cách mạng thừa thắng xốc tới tiến công vào hang ổ địch trên khắp miền Nam.

Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm lớn nhất của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, bởi vì đây là trung tâm đầu não chỉ đạo toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ - nguỵ tại miền Nam Việt Nam.

Để bảo vệ Sài Gòn - Gia Định, Mỹ - nguỵ đã tổ chức một hệ thống phòng thủ vững chắc nhiều tầng, nhiều lớp với nhiều loại lực lượng tham gia. Đặc biệt vào đầu năm 1968, khi phát hiện ta chuyển quân về các vùng trung tâm dân cư, Mỹ đã huỷ bỏ các cuộc hành quân dự kiến co về vùng vành đai Sài Gòn, hình thành ba tuyến phòng thủ. Lực lượng chủ lực của chúng trực tiếp phòng thủ Sài Gòn - Gia Định gồm: 4 sư đoàn, 2 lữ đoàn, 1 trung đoàn quân Mỹ, 1 lữ đoàn quân Thái Lan, 1 trung đoàn quân Ôxtrâylia, 3 sư đoàn quân nguỵ cùng nhiều liên đoàn biệt động, giang thuyền, chưa kể lực lượng an ninh, cảnh sát, bảo an dân vệ.

Ngay từ phút đầu nổ súng, biệt động ta đã đồng loạt đánh vào các mục tiêu quy định: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà, Bộ Tư lệnh Hải quân, Sân bay Tân Sơn Nhất, Đài Phát thanh, Toà Đại sứ Mỹ. Trận đánh Toà Đại sứ Mỹ hơn 6 tiếng đồng hồ với 17 chiến sĩ biệt động của ta đương đầu với lực lượng quân cảnh, lính dù của Mỹ đã gây một tiếng vang lớn làm chấn động nước Mỹ.

Đồng thời với lực lượng biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn trang bị gọn nhẹ, từ các bàn đạp vùng ven, nhanh chóng tiến vào nội đô trên các hướng. Xung quanh Sài Gòn - Gia Định, các căn cứ quân sự, trụ sở quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hoà, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An... cũng bị tiến công.

Ở mặt trận Trị Thiên, lực lượng ta tiến công Nhà đèn, Ty Cảnh sát, Toà Tỉnh trưởng, trụ sở cơ quan bình định và trụ sở MACV, Tri Bưu, Thành Cổ, La Vang, điểm cao 49. Nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng, Bến Đá rầm rộ nổi dậy cùng bộ đội địa phương bao vây địch ở trong các quận lỵ cầu Nhùng, Bến Đá làm chủ đoạn quốc lộ 1 từ Diên Sanh đến Mỹ Chánh; đánh chiếm quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt quốc lộ 1 đoạn từ Đà Nẵng ra Huế, phá sập Cầu Hai, cầu Nước Ngọt, giải phóng khu vực xung yếu ven biển và phía nam Cầu Hai, khu vực Truồi.

Tại Huế, thành phố lớn thứ 3 miền Nam, hầu hết các cơ quan đầu não của địch bị ta đánh chiếm. Phối hợp với chủ lực, quần chúng nổi dậy lùng bắt ác ôn, phá bỏ bộ máy kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng cơ sở, xây dựng trận địa phòng thủ... Địch sau đó phản kích dữ dội. Ta và địch giành giật nhau từng góc phố, từng căn nhà, từng đoạn đường. Ngày 25/2, quân ta rút khỏi Huế để bảo toàn lực lượng. Như vậy, quân và dân ta đã làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm.

Bị tiến công đồng loạt, bất ngờ, địch lúc đầu choáng váng. Chúng dồn về mặt trận đô thị, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm thời cơ, lực lượng vũ trang tại chỗ hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn.

Tiếp theo đợt một, chúng ta còn mở đợt tiến công mùa hè (5/1968) và mùa thu (8/1968). Hai đợt tiến công này bồi tiếp đòn nặng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho chúng những tổn thất lớn về sinh lực và phương tiện chiến tranh.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ta đã đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 8 trong 11 bộ tư lệnh sư đoàn quân đội Sài Gòn, 2 bộ tư lệnh biệt khu, 2 bộ tư lệnh dã chiến Mỹ cùng nhiều bộ tư lệnh lữ đoàn, trung đoàn, chi khu và hàng trăm căn cứ quân sự địch bị tiến công đồng loạt. Chúng ta tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn quân địch trong đó có 4 vạn quân Mỹ, 600 ấp chiến lược, giải phóng thêm 100 xã với hơn 1,6 triệu dân.

TS (Theo tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương)