Cách mạng Tháng Tám 1945 - sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam

09:08, 19/08/2015

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bằng Cương lĩnh, đường lối, phương pháp cách mạng khoa học, đúng đắn, Đảng đã lôi cuốn đông đảo quần chúng và tổ chức thành lực lượng cách mạng hùng hậu. 

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bằng Cương lĩnh, đường lối, phương pháp cách mạng khoa học, đúng đắn, Đảng đã lôi cuốn đông đảo quần chúng và tổ chức thành lực lượng cách mạng hùng hậu. Trải qua muôn vàn thử thách, với các cao trào cách mạng, như Xô Viết Nghệ - Tĩnh 1930-1931, Cao trào dân chủ năm 1936-1939 và cao trào chống phát xít, Đảng và nhân dân ta đã có thêm nhiều bài học kinh nghiệm quý giá trong đấu tranh cách mạng.
 
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật; trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình. 
 
Ở trong nước, phong trào cách mạng lên cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đảo chính Pháp; Trung ương Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam. Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang chuẩn bị Đại hội quốc dân. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. 
 
23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1, hiệu triệu toàn dân đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân tại Tân Trào đã thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”, thông qua “Lệnh Tổng khởi nghĩa”, bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta!”. 
 
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam. Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội; ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế; ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định... Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
 
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường, hy sinh oanh liệt của các tầng lớp nhân dân ta, một lòng đi theo Đảng, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc; được diễn ra trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi, chủ nghĩa phát xít bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.
 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội (CNXH).
 
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị thực dân, đế quốc áp bức, thống trị. 
 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học quý báu, nổi bật là:
 
(1) Có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng, nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng, phương pháp và hình thức đấu tranh đúng đắn, phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
 
(2) Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, dựa chắc vào nhân dân, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công; kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
 
(3) Nhờ nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, nên cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trong thời gian ngắn.
 
THÀNH TỰU 70 NĂM XÂY DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 
 
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khéo léo, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, đi đến bến bờ vinh quang.
 
 Những năm 1945 - 1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân tiến hành xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân non trẻ; bầu cử Quốc hội (6/1/1946); xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo; chủ động chuẩn bị tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 
 
 Tháng 12/1946, thực dân Pháp dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, vừa kiến quốc vừa kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại cuộc chiến tranh của thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
 
 Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi nhưng đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Toàn thể nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng: cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa của cách mạng cả nước; cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
 
 Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trải qua nhiều giai đoạn, nhân dân ta phải lần lượt đối phó với các chiến lược chiến tranh tàn bạo, xảo quyệt của kẻ thù. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng, qua 21 năm chiến đấu anh dũng (1954-1975), chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Đối với cách mạng ở miền Bắc, Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960); đẩy mạnh xây dựng CNXH (1961-1965); chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm nghĩa vụ hậu phương (1965-1968); khôi phục và phát triển kinh tế, không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam, chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1969-1973); khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, ra sức chi viện cho miền Nam (1973-1975). Đối với cách mạng ở miền Nam, Đảng và Nhà nước ta lãnh đạo đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ: “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” và “đánh cho ngụy nhào”. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế, có tính thời đại sâu sắc.
 
Trong những năm đầu đất nước thống nhất, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn, thử thách; vừa phải giải quyết hậu quả 30 năm chiến tranh, vừa phải tiến hành các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế; lại bị bao vây, cấm vận. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân tộc quyết tâm đồng lòng vượt qua khó khăn, nhanh chóng khôi phục sản xuất, xây dựng, củng cố chính quyền trên phạm vi cả nước, ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp không còn phù hợp; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi đã mắc sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý chí, dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội. Có thể nói, mười năm đầu sau giải phóng (1975-1985) là mười năm Đảng, Nhà nước ta tìm tòi con đường đổi mới; thành tựu và khuyết điểm đều là những bài học quý giá cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm tiếp theo.
 
 Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đưa ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Qua các kỳ đại hội (từ ĐH VII đến ĐH XI), Đảng luôn khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp, giữ vững định hướng XHCN; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đảng ta không ngừng phát triển tư duy lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, từng bước củng cố và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
 
 Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa... Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường ngày càng vững chắc. Đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, đã vượt qua ngưỡng nước nghèo, chậm phát triển; không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy; văn hóa, xã hội không ngừng phát triển; vai trò và vị thế của nước ta trên thế giới ngày càng nâng cao. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam đang thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế... Qua đó, tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
 
CHẶNG ĐƯỜNG 70 NĂM QUA ĐỂ LẠI NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ VÔ GIÁ
 
Kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, cách mạng Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn, nhiều bước ngoặt và vượt qua nhiều thử thách lớn, giành thắng lợi vĩ đại, đưa đất nước phát triển. Hiện nay, tuy đất nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng cơ bản đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Từ thực tiễn 70 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về:
 
Thứ nhất, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau, đảm bảo sự thắng lợi vững chắc của cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
 
Thứ hai, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ XHCN và của Đảng.
 
Thứ ba, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta.
 
Thứ tư, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
 
Thứ năm, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn về sai lầm đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
 
Phát huy thành quả, kinh nghiệm trong 70 năm qua, Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi năm 2013), thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phấn đấu thực hiện các mục tiêu: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy có hiệu quả mọi nguồn lực, động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững; không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân; rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế; phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN.
 
Trước mắt, cần thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm là: (1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. 
 
 (2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. 
 
 (3) Tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động. Thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nhanh nguồn lực, nhất là nguồn lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
 
 (4) Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế. 
 
 (5) Thu hút và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, sức sáng tạo của nhân dân; chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. 
 
 (6) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam và con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 33 - NQ/TW (Hội nghị Trung ương 9 khóa XI) đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc; tăng cường quản lý phát triển xã hội; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội…
 
Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2-9 trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thi đua lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, chúng ta càng hiểu rõ hơn giá trị của Cách mạng Tháng Tám; nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng Tháng Tám, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 70 năm qua vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
 
LÂM ĐỒNG TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH VÀ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC
 
Đầu tháng 8/1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Đêm ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban hành Lệnh khởi nghĩa trong cả nước. Đêm ngày 21/8/1945, hội nghị bàn kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Lâm Viên được tổ chức tại Đà Lạt, thành lập Ủy ban Khởi nghĩa và quyết định lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 23/8/1945. Tối ngày 23/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa và một số cán bộ, đảng viên, cơ sở cốt cán họp tại trụ sở Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên (nguyên là dinh Tỉnh trưởng, số 4 đường Thủ Khoa Huân) nhất trí thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên, do đồng chí Phan Đức Huy làm Chủ tịch. Sáng ngày 24/8/1945, các tầng lớp nhân dân Đà Lạt tập trung tại khu vực chợ dự mít tinh, Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Lâm Viên ra mắt đồng bào. 
 
 Được tin Đà Lạt khởi nghĩa thắng lợi, ngày 26/8, hàng ngàn nhân dân huyện B’Lao mang theo cờ, vũ khí kéo về khu vực vườn thực nghiệm dự mít tinh, tuyên bố giải tán chính quyền của địch và thành lập chính quyền cách mạng. Chiều ngày 28/8, tại sân vận động Di Linh, hàng trăm công chức, thanh niên, đồng bào Kinh - Thượng dự mít tinh, thông báo ở Đồng Nai Thượng chính quyền đã về tay nhân dân và giới thiệu Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời của tỉnh. Như vậy, chỉ trong vòng 7 ngày (từ ngày 22 đến 28/8/1945), nhân dân các dân tộc hai tỉnh Lâm Viên, Đồng Nai Thượng đã khởi nghĩa thắng lợi, thành lập chính quyền cách mạng từ tỉnh đến cơ sở. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thắng lợi, đánh dấu mốc son lịch sử quan trọng đối với phong trào cách mạng địa phương. 
 
Sau khi giành được chính quyền, Mặt trận Việt Minh và chính quyền hai tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng đã nỗ lực thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính quyền cách mạng, từng bước ổn định đời sống nhân dân, giữ gìn trật tự trị an. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban kháng chiến hai tỉnh tập trung củng cố bộ máy cơ quan lãnh đạo, tổ chức các đơn vị vũ trang, bố trí cán bộ chiến sĩ trở về hoạt động trong vùng địch kiểm soát; vừa tuyên truyền đường lối kháng chiến vừa đẩy mạnh diệt tề, trừ gian; chăm lo tăng cường sức mạnh chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, tăng cường bồi dưỡng sức dân, phát triển sức mạnh về mọi mặt chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. 
 
Từ 1946 - 1954, Ban Cán sự Đảng, Ủy ban Kháng chiến và Mặt trận Việt Minh tỉnh đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, phối hợp với các chiến trường mở nhiều đợt tấn công tiêu diệt địch, giải phóng một vùng rộng lớn giáp với tỉnh Bình Thuận, góp phần cùng quân dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954).
 
Sau Hiệp định Giơnevơ, ở Lâm Đồng cán bộ và lực lượng vũ trang đã tập kết ra miền Bắc, tổ chức Đảng không còn nữa. Đầu năm 1955, Ban Cán sự Đảng Cực Nam Trung bộ chủ trương điều một số cán bộ, đảng viên trở lại chiến trường Lâm Đồng và thành lập các Ban Cán sự Đảng trên địa bàn Đà Lạt, Bảo Lộc, Di Linh. Tháng 8-1961, Khu ủy 6 quyết định thành lập Tỉnh ủy của hai tỉnh Lâm Đồng (cũ) và Tuyên Đức. Sau khi được thành lập, Tỉnh ủy hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức đã kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng căn cứ, tích cực tăng gia sản xuất nhằm giải quyết đời sống và đóng góp nghĩa vụ cho cách mạng; đồng thời đẩy mạnh hoạt động vũ trang tiêu diệt địch, bám dân, bám ấp, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá kèm. Thực hiện chủ trương chiến đấu lâu dài, lực lượng vũ trang và nhân dân hai tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức đã kết hợp có hiệu quả 3 mũi đấu tranh: chính trị, vũ trang và hoạt động binh vận; 3 địa bàn chiến lược: đô thị, nông thôn và xây dựng căn cứ vững chắc; phát huy cao độ khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết Kinh - Thượng... Do đó, đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giải phóng tỉnh Lâm Đồng (4-1975), góp phần cùng quân dân cả nước giành chiến thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
 
10 năm đầu sau giải phóng (1975 - 1985), chính quyền cách mạng còn non trẻ, việc thiết lập trật tự trị an và ổn định đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; đồng thời phải đối mặt với sự ngấm ngầm chống phá cách mạng của lực lượng ngoan cố của chế độ cũ và đến giữa năm 1975 bọn FULRO đã nổi dậy hoạt động ở một số địa bàn nông thôn, rừng núi xung yếu. Thực hiện các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I và lần thứ II, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, cơ bản giải quyết xong hoạt động ngoài rừng của lực lượng FULRO (1987), giành được những thắng lợi rất quan trọng trên các lĩnh vực.
 
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, từ năm 1986 đến nay, tỉnh Lâm Đồng đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đề ra các chủ trương, biện pháp đúng đắn, phù hợp nhằm khơi dậy và phát huy sức mạnh nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của địa phương để không ngừng phát triển. 
 
Trải qua 70 năm chiến đấu và xây dựng, nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng đã phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng, với ý chí tự lập, tự cường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, cùng nhân dân cả nước giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 40 năm xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình nhưng gặp vô vàn khó khăn, trở ngại, đặc biệt sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Lâm Đồng đã khai thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về phát triển nông - lâm nghiệp, nhất là nông nghiệp công nghệ cao; về du lịch - dịch vụ; phát triển công nghiệp chế biến, thủy điện; đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo; chăm lo công tác an sinh xã hội; phát triển văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; giữ vững quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và tổ chức; tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị; thực hiện có kết quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh... từ đó, phát huy nội lực đưa Lâm Đồng vượt qua tình trạng một tỉnh nghèo, chậm phát triển.
 
Phát huy truyền thống 70 năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Lâm Đồng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, con đường đi lên CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; năng động, sáng tạo, nỗ lực khắc phục khó khăn, mạnh dạn ứng dụng công nghệ cao trong các ngành sản xuất và dịch vụ nhằm khai thác và phát huy tiềm năng, thế mạnh, đưa Lâm Đồng phát triển nhanh, bền vững, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.   
 
BAN BIÊN TẬP