Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng to lớn

08:11, 16/11/2015

Yêu nước mang tính phổ biến của nhân dân các quốc gia, của các dân tộc trên thế giới. Đối với người Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là giá trị thiêng liêng chung của toàn dân, kể cả những người Việt Nam đang sống ở nước ngoài; là sức mạnh tiềm tàng, thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực không bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử đất nước và là đặc trưng tiêu biểu cho tính cách con người Việt Nam.

Yêu nước mang tính phổ biến của nhân dân các quốc gia, của các dân tộc trên thế giới. Đối với người Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là giá trị thiêng liêng chung của toàn dân, kể cả những người Việt Nam đang sống ở nước ngoài; là sức mạnh tiềm tàng, thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực không bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử đất nước và là đặc trưng tiêu biểu cho tính cách con người Việt Nam. Song, bất cứ tiềm năng tinh thần dù to lớn bao nhiêu nếu không được thường xuyên khơi dậy, phát huy, nuôi dưỡng thì sẽ không biến thành sức mạnh vật chất.
 
Lênin đã từng nói: Yêu nước là “một trong những tình cảm sâu sắc nhất đã được củng cố qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Chủ nghĩa yêu nước là “nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc” (Từ điển Triết học). Như vậy, nói tới chủ nghĩa yêu nước là nói tới một phạm trù thuộc lĩnh vực tư tưởng và tình cảm của nhân dân tất cả các quốc gia, của các dân tộc trên thế giới. Nội dung chính của chủ nghĩa yêu nước là lòng trung thành với Tổ quốc.
 
Tuy nhiên, tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, hoàn cảnh lịch sử, tự nhiên của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc mà quá trình đó hình thành bởi thời gian cũng như nội dung và đặc điểm sẽ không giống nhau. Phải chăng đó là mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa yêu nước.
 
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến những khuynh hướng lệch lạc trong phát triển tinh thần dân tộc. Đó là tư tưởng sô vanh nước lớn, chủ nghĩa đại dân tộc, hoặc dân tộc hẹp hòi, quốc gia vị kỷ. Những khuynh hướng này đã và đang là nguyên nhân sâu xa hoặc trực tiếp của nhiều cuộc xung đột trong các quốc gia và các khu vực trên thế giới. Lịch sử cũng đã cho thấy sức mạnh to lớn của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính ở nhiều quốc gia dân tộc trong cuộc đấu tranh để dựng nước và giữ nước (trong đó có dân tộc Việt Nam).
 
Yêu nước là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước, trở thành tình cảm thiêng liêng trong mỗi người con đất Việt. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ thời cổ đại đến hiện đại. Chủ nghĩa yêu nước giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu trong bậc thang giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, là động lực nội sinh to lớn của cộng đồng dân tộc Việt Nam, tạo nên sức mạnh vô địch trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong công cuộc xây dựng đất nước. Đúng như Bác Hồ đã nói: “Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn. Lịch sử ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã ghi những trang oanh liệt của nhân dân đấu tranh để xây dựng nước nhà và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc mình” (HCM toàn tập, T.9.tr.313).
 
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là sự nghiệp vĩ đại, hết sức vẻ vang nhưng đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp và chưa có tiền lệ. Để hoàn thành sự nghiệp vẻ vang này, một động lực quan trọng hàng đầu là phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thống nhất ý chí và hành động, năng động, sáng tạo, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới do Đảng đề ra.
 
Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội xã hội chủ nghĩa”. Muốn vậy, phải không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng. Lịch sử Việt Nam cho thấy: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, và giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta ngày càng mạnh... Nhờ lực lượng ấy mà với gậy tầm vông và súng hỏa mai lúc đầu, chúng ta đã liên tiếp chiến thắng địch”, như Bác Hồ đã khẳng định. Bác Hồ đã nêu ra một nguyên lý nổi tiếng:
 
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
 
Đại đoàn kết dân tộc trở thành một động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết phải theo những nguyên tắc sau:
 
Một là, xây dựng khối đoàn kết toàn dân trên lập trường của giai cấp công nhân: Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo; liên minh công, nông, trí thức là nền tảng của khối đoàn kết dân tộc.
 
Hai là, lấy lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, trên cơ sở đó bảo đảm có sự kết hợp hài hòa các lợi ích giữa cá nhân và tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế.
 
Ba là, yêu thương dân, tin dân, dựa vào dân. Dân tộc ta có truyền thống: “Nước lấy dân làm gốc”; “Thương người như thể thương thân”; “Thương nước, thương nhà, thương người, thương mình”; “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”; “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”... Với Bác Hồ, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống và đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt.
 
Để thực hiện đại đoàn kết, đòi hỏi có phương pháp. Trước hết, xây dựng hệ thống chính trị hoàn chỉnh. Đây là phương pháp quan trọng nhất. Như chúng ta đều biết, Đảng Cộng sản vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người tổ chức, thống nhất lực lượng, giữ vững và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng phải thực sự là đạo đức, văn minh, phải giữ gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
 
Nhà nước là người tổ chức, quản lý xã hội, đồng thời là tổ chức đại diện quyền lực của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước phải thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân. Cán bộ, công chức nhà nước là đầy tớ, công bộc của nhân dân, đưa chính sách, đường lối của Đảng đến với nhân dân, có khả năng tổ chức quần chúng nhân dân thực hiện.
 
Trong các tổ chức chính trị, xã hội, các đoàn thể quần chúng thì Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, đưa khối đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới. Mặt khác, cần chú trọng việc tuyên truyền, vận động giáo dục quần chúng để mọi người tự giác góp phần tích cực củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện thuận lợi để cho mọi tổ chức và cá nhân đều có cơ hội phấn đấu để tiến bộ và trưởng thành, có đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 
Sức mạnh trong nước, sức mạnh dân tộc là sức mạnh tổng hợp tạo ra từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của văn hóa tinh thần và sức mạnh vật chất của dân tộc. Sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại đóng vai trò quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay biết tranh thủ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
 
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh bên trong là yếu tố quyết định, nó được nâng lên nếu kết hợp, tận dụng được sức mạnh bên ngoài. Vì vậy, chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế càng có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
 
KHUẤT MINH PHƯƠNG