Cách đây 70 năm, ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đã hoàn toàn thắng lợi, Quốc hội khóa I của nước Việt Nam ra đời. Đây là sự kiện đánh dấu sự mở đầu thời đại mới trong lịch sử dân tộc, dấu mốc phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.
Cách đây 70 năm, ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đã hoàn toàn thắng lợi, Quốc hội khóa I của nước Việt Nam ra đời. Đây là sự kiện đánh dấu sự mở đầu thời đại mới trong lịch sử dân tộc, dấu mốc phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử khẳng định sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngay sau khi ra đời, Quốc hội khóa I (1946-1960) đã có những đóng góp to lớn vào công cuộc củng cố nền độc lập, xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa, thành lập Chính phủ hợp hiến, hợp pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và bảo đảm cho Chính phủ đủ uy tín, hiệu lực để thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại; tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Những năm đầu sau khi hòa bình lập lại, Quốc hội đã thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, đưa miền Bắc tiến dần trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước, tạo thế và lực cho cách mạng miền Nam tiến lên. Trong 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã xem xét và ban hành Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, 11 đạo luật và 50 nghị quyết.
Trong thời kỳ 1960-1980 với 5 khóa Quốc hội, hoạt động theo Hiến pháp 1959, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quốc hội đã từng bước mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước anh em, bè bạn trên thế giới nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, kể từ khóa VI (1976-1981), chúng ta có Quốc hội chung của cả nước. Quốc hội đã ban hành những quyết định hết sức quan trọng nhằm tiếp tục củng cố và phát huy thành quả của cách mạng, xây dựng Nhà nước Việt Nam thống nhất, trong đó có Hiến pháp năm 1980, các đạo luật và nghị quyết về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động của bộ máy nhà nước và toàn xã hội trong điều kiện cả nước đi lên CNXH.
Trong những năm 1980-1992, hoạt động theo Hiến pháp năm 1980, chức năng và nhiệm vụ của Quốc hội được xác định đầy đủ và cụ thể hơn. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế và văn hóa, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Ngoài các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành mới theo Hiến pháp năm 1980, lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành Bộ luật hình sự (1985), Luật hôn nhân gia đình (1986), thể hiện bước phát triển đáng kể trong hoạt động lập pháp của Quốc hội.
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, vị trí, vai trò của Quốc hội ngày càng được khẳng định; uy tín của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Quốc hội chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình, mục tiêu quốc gia, bảo đảm an ninh - quốc phòng và về tổ chức bộ máy, nhân sự của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật.
Quốc hội khóa VIII (1987-1992) là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa chính sách kinh tế mới lần đầu tiên đã được Quốc hội ban hành, như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), Luật doanh nghiệp tư nhân (1990). Đây là những đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân. Ngoài ra, Quốc hội còn ban hành các luật khác phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Từ năm 1992 đến nay, được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992 và qua gần 4 nhiệm kỳ hoạt động, Quốc hội đã có những đổi mới mạnh mẽ, đúng đắn, khắc phục dần tính hình thức trên một số mặt. Tổ chức của Quốc hội từng bước được kiện toàn với việc thành lập thêm Ủy ban Quốc phòng - An ninh trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX (1992-1997); Ủy ban Tài chính, Ngân sách và Ủy ban Tư pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007-2011); tăng số đại biểu hoạt động chuyên trách lên 29,4% và thành lập thêm một số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Với sự nỗ lực cao trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, số lượng luật và pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới đã tăng lên rất nhiều qua mỗi nhiệm kỳ. Từ 1992 đến nay, Quốc hội đã ban hành 214 luật, bộ luật và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 130 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý để điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống và xã hội. Chất lượng hoạt động lập pháp ngày càng được nâng lên; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và tính đồng bộ của hệ thống pháp luật với các quy định cụ thể hơn.
Quốc hội đã có nhiều quyết sách quan trọng như quyết định tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nước; xem xét và thông qua các nghị quyết về dự toán và quyết toán ngân sách, phân bổ ngân sách nhà nước; các nghị quyết về nhiệm vụ, các kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm; phê chuẩn các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; quyết định chủ trương đầu tư xây dựng các công trình quan trọng quốc gia, tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội cũng không ngừng được chú trọng; tăng cường giám sát chuyên đề, tập trung vào các vấn đề bức xúc của cuộc sống mà cử tri quan tâm; nâng cao hiệu quả chất vấn và trả lời chất vấn, tạo không khí cởi mở, dân chủ, được nhân dân quan tâm theo dõi và hoan nghênh.
Trên lĩnh vực đối ngoại, hoạt động của Quốc hội cũng ngày càng được đẩy mạnh và mở rộng trên cả bình diện song phương và đa phương. Hiện nay, Quốc hội Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Hội đồng liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Diễn đàn đối tác Nghị viện Á - Âu (ASEP), Diễn đàn Nghị viện các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương (APPF), Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF), Liên minh nghị viện thế giới (IPU). Không chỉ là thành viên tích cực tham gia đầy đủ các hoạt động của các tổ chức này, Quốc hội nước ta còn tích cực, chủ động đề xuất nhiều sáng kiến quan trọng nhằm tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa các nghị viện…; qua đó, góp phần nâng cao vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Quốc hội vẫn còn những vấn đề về tổ chức và hoạt động cần tiếp tục nghiên cứu để cải tiến, tiếp tục đổi mới. Quy trình lập pháp tuy được đổi mới nhưng vẫn chưa đồng bộ. Một số quy định trong các văn bản luật, pháp lệnh còn chưa phù hợp với thực tế, chưa có tính khả thi cao, cần phải được sửa đổi, bổ sung sau một thời gian ngắn. Một số quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội còn thiếu cụ thể hoặc chưa phù hợp nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời. Thông tin phục vụ Quốc hội xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước còn chưa đầy đủ, kịp thời. Sự phối hợp công tác giữa các cơ quan của Quốc hội và giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan hữu quan có lúc còn chưa được nhịp nhàng, chặt chẽ…
NHỮNG KINH NGHIỆM QUÝ BÁU
Chặng đường 70 năm hoạt động đã chứng minh rằng, Quốc hội là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho công cuộc kháng chiến - kiến quốc, đánh thắng thực dân Pháp và chiến thắng đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nền dân chủ XHCN, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Với những kết quả đạt được, cũng như những khó khăn hạn chế của Quốc hội Việt Nam trong 70 năm qua, nhất là gần 30 năm đổi mới, có thể đúc kết được một số kinh nghiệm quý báu cho những chặng đường tiếp theo, đó là:
Trước hết, sự ra đời của Quốc hội là thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quá trình hình thành và sự ra đời của Quốc hội Việt Nam diễn ra trong bối cảnh lịch sử đầy cam go, thử thách; là kết tinh của sự lựa chọn đúng đắn, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và quy luật phát triển của lịch sử. Từ Quốc hội khóa I đến Quốc hội khóa XIII là cả một quá trình tích lũy tri thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, được cụ thể hóa từng bước, từ thấp đến cao, phù hợp với diễn biến và yêu cầu của mỗi giai đoạn. Quốc hội đã cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đi suốt các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ cho đến ngày toàn thắng và tiếp tục tiến hành sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong điều kiện đổi mới, hội nhập, càng cần ra sức phát triển và không ngừng hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Hai là, từ khi ra đời đến nay, Quốc hội luôn luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân; là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, các thành phần xã hội, cùng thực hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Tuyên ngôn của Quốc hội (tại Kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa I, tháng 3 - 1946) đã ghi rõ: “Chủ quyền của nước Việt Nam độc lập thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam. Vận mệnh quốc gia Việt Nam là ở trong tay Quốc hội Việt Nam”. Từ tuyên ngôn này, Quốc hội các khóa tiếp theo luôn bảo đảm tính đại diện sâu sắc, thể hiện rộng rãi khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc Quốc hội thường xuyên liên hệ, lắng nghe và nắm bắt đúng tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tập hợp đầy đủ ý kiến kiến nghị của cử tri và giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri là nhân tố quan trọng để Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Ba là, từ khi ra đời đến nay, vai trò, vị trí, tính chất của Quốc hội luôn được khẳng định một cách nhất quán và xuyên suốt trong cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp của nước ta. Qua mỗi lần sửa đổi Hiến pháp, vị trí, tính chất của Quốc hội lại được hoàn thiện hơn ở một tầm cao mới. Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực bằng con đường nhà nước. Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn to lớn để thiết lập trật tự chính trị, pháp lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Bốn là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban, các cơ quan chuyên môn của Quốc hội; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách; tăng cường bộ máy giúp việc với trình độ chuyên môn sâu và thành thạo công việc, có ý nghĩa quyết định đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Đồng thời, không ngừng đổi mới cách thức chuẩn bị và tiến hành các kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội; phát huy mạnh mẽ dân chủ, trao đổi thẳng thắn để các quyết định của Quốc hội bảo đảm tính chính xác, có chất lượng cao, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân.Thường xuyên tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Quốc hội và các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, góp phần quan trọng phát huy mạnh mẽ vai trò của Quốc hội trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, quá trình hình thành, ra đời và phát triển của Quốc hội là quá trình liên tục kế thừa, không ngừng đổi mới cả về tổ chức và hoạt động, đáp ứng kịp thời yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Kể từ khóa I đến nay, mọi kết quả hoạt động và trưởng thành của Quốc hội khóa sau là sự kế thừa và phát triển liên tục của Quốc hội các khóa trước. Đó là bài học quý giá cho việc kiện toàn, củng cố và không ngừng được đổi mới Quốc hội. Đó cũng là cơ sở để Quốc hội hoàn thành sứ mệnh của mình trong từng giai đoạn lịch sử.
Sáu là, bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định để Quốc hội trở thành cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước, hoàn thành xuất sắc trọng trách mà nhân dân ủy thác. Quốc hội các khóa từ trước đến nay đã luôn luôn nắm vững và vận dụng đúng đắn đường lối, quan điểm và các chủ trương của Đảng vào các hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Thực tế cho thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng tạo khả năng xây dựng một cơ cấu tổ chức thống nhất của Quốc hội và là tiền đề bảo đảm cho Quốc hội phát huy được các hoạt động của mình. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước luôn gắn liền với việc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, bao gồm đổi mới cả nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng.
Những kinh nghiệm quý giá trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội thời gian qua là cơ sở để tiếp tục đổi mới việc thực hiện các chức năng lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội, trong đó có những giải pháp để đổi mới cơ cấu tổ chức của Quốc hội, nâng cao vai trò của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội; đổi mới quy trình, thủ tục làm việc; nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; cải tiến và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy giúp việc của Quốc hội.
YÊU CẦU NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
Hiện nay, tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố đan xen, thách thức khó lường; khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều yếu tố gây mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn biến căng thẳng, phức tạp. Đối với nước ta, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chúng ta vẫn phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu, những yếu kém vốn có của nền kinh tế, cùng với mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập cũng tác động tiêu cực đến quá trình phát triển của đất nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện “diễn biến hòa bình” để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dưới các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” nhằm thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam... Thực tế đó đòi hỏi chúng ta hơn bao giờ hết, càng phải đoàn kết chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, tận dụng thời cơ và thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, huy động tốt mọi nguồn lực, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đó, với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với Quốc hội trong thời gian tới là rất nặng nề. Điều đó đòi hỏi Quốc hội cần phải kế thừa, phát huy những thành tựu và kinh nghiệm của 70 năm qua, tiếp tục nỗ lực phấn đấu, tập trung sức thực hiện tốt một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò, vị trí của Quốc hội, xác định rõ Quốc hội là một thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là nơi tập trung cao nhất quyền lực của nhân dân trong hệ thống nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Từ đó tiếp tục kiện toàn tổ chức của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đề cao vị trí, vai trò của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội theo hướng phát huy trí tuệ tập thể, tăng cường thảo luận dân chủ để có những quyết định đúng đắn, chính xác.
Thứ hai, chú trọng nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, coi đây là một khâu có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao chất lượng thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế lựa chọn, giới thiệu và tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội theo hướng vừa nâng cao chất lượng đại diện theo địa phương, vừa chú ý đến yêu cầu đại diện theo ngành, giới, nghề nghiệp; tăng cường mối quan hệ giữa đại biểu Quốc hội với cử tri; tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy mạnh mẽ vai trò của đại biểu Quốc hội ở cả trung ương và địa phương. Đồng thời, củng cố, nâng cao năng lực các cơ quan tham mưu giúp việc, nhằm hỗ trợ đắc lực cho các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội.
Thứ ba, tăng cường năng lực và hoạt động lập pháp của Quốc hội, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục nêu cao tính chủ động trong hoạt động lập pháp, đổi mới quy trình lập pháp, bảo đảm tiến độ và chất lượng chuẩn bị dự án luật ngay từ những công đoạn đầu, coi trọng xác định nội dung chính sách luật trước khi tiến hành các bước tiếp theo trong quy trình lập pháp. Phấn đấu đến năm 2020, nước ta sớm có đủ các đạo luật cơ bản để điều chỉnh các quan hệ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát; tập trung vào những vấn đề lớn bức xúc trong đời sống kinh tế - xã hội (như quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng vốn, tài sản, ngân sách nhà nước, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân...). Thông qua giám sát để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động và xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người đứng đầu thực thi công vụ nhằm thúc đẩy hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ năm, đề cao trách nhiệm và nâng cao chất lượng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân; chất lượng việc quyết định ngân sách nhà nước, các vấn đề về kinh tế - xã hội, tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ sáu, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại của Quốc hội, góp phần thực hiện có kết quả chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tranh thủ những điều kiện khách quan thuận lợi để triển khai mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đối ngoại nghị viện trong tình hình mới, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
70 năm qua, Quốc hội Việt Nam đã trải qua một chặng đường vẻ vang, xây dựng một chỗ đứng vững chắc trong lòng dân, không ngừng lớn mạnh và phát triển, ngày càng khẳng định vững chắc, vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao; cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trong mỗi giai đoạn thăng trầm của cách mạng, Quốc hội giúp khơi dậy ý chí và tinh thần đoàn kết trong toàn dân, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước. Với những kết quả và kinh nghiệm đã thu được qua 70 năm xây dựng và phát triển, chúng ta có cơ sở để tin chắc rằng, trong thời gian tới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự ủng hộ, giúp đỡ, giám sát của nhân dân; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, Quốc hội nước ta nhất định sẽ làm tròn trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.
BAN BIÊN TẬP