Tư tưởng đại đoàn kết trong thư Bác Hồ gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku

09:04, 18/04/2016

Nhân dịp kỷ niệm "70 năm ngày Bác Hồ gửi thư Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku" (19/4/1946 - 19/4/2016), ngày 15/4/2016, tại TP. Pleiku, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội phối hợp với Tỉnh ủy Gia Lai đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề "Tư tưởng đại đoàn kết trong thư Bác Hồ gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku"...

[links()] Nhân dịp kỷ niệm “70 năm ngày Bác Hồ gửi thư Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku” (19/4/1946 - 19/4/2016), ngày 15/4/2016, tại TP. Pleiku, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Hội đồng Dân tộc của Quốc hội phối hợp với Tỉnh ủy Gia Lai đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Tư tưởng đại đoàn kết trong thư Bác Hồ gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku”. Sau 8 tháng chuẩn bị, hội thảo đã thu hút 36 báo cáo khoa học của các nhà nghiên cứu thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, các trường đại học, viện nghiên cứu...
 
Bức thạch thư của Bác Hồ đặt tại Quảng trường Đại đoàn kết TP. Pleiku
Bức thạch thư của Bác Hồ đặt tại Quảng trường Đại đoàn kết TP. Pleiku
I-Các dân tộc thiểu số miền Nam, Tây Nguyên làm theo lời Bác
 
Cách đây tròn 70 năm, ngày 19/4/1946, trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã diễn ra sự kiện chính trị có ý nghĩa rất quan trọng, đó là Đại hội các dân tộc thiểu số (DTTS) miền Nam được diễn ra tại thị xã Pleiku, nay là TP. Pleiku. Đại hội diễn ra trong hoàn cảnh đất nước ta đang bị đe dọa trước âm mưu xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. 
 
Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) được ký kết, thực dân Pháp liên tiếp vi phạm cả về chính trị và quân sự. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc Tây Nguyên khẩn trương chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược theo chủ trương của Đảng và Bác Hồ. Lợi dụng tình hình trong thời điểm này, bọn tay chân cũ của Pháp cũng nhân cơ hội ngóc đầu dậy, tìm cách móc nối với kẻ thù để hoạt động chống phá chính quyền cách mạng, tuyên truyền xuyên tạc Chính phủ ta, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, thực hiện âm mưu chia rẽ các dân tộc Việt Nam… Nhận rõ âm mưu, thủ đoạn chia rẽ của kẻ thù, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc để chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Để đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc và lập các xứ “tự trị” của thực dân Pháp, theo chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ, ngày 19/4/1946, Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam - Đại hội Đoàn kết dân tộc chống thực dân Pháp được tổ chức tại thị xã Pleiku. Địa điểm diễn ra Đại hội ngay tại khu vực nhà sàn của Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Gia Lai (nay là khu vực trụ sở Tỉnh ủy Gia Lai, trên đường Hai Bà Trưng). Ông Nay Phin, nhân sĩ trí thức người dân tộc Jrai, lúc này giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, là đại biểu đại diện cho đồng bào các DTTS của tỉnh Gia Lai tham dự Đại hội. 
 
Trong điều kiện đất nước vừa mới giành được độc lập, mặc dù phải trực tiếp lãnh đạo lực lượng cách mạng, để đối phó với nạn giặc ngoại xâm và củng cố chính quyền cách mạng, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất quan tâm đến Đại hội. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, căn cứ địa cách mạng ở các tỉnh Tây Nguyên và vùng Nam Bộ cách rất xa Trung ương, Pleiku là nơi diễn ra Đại hội cách Thủ đô Hà Nội trên 1.000km, đường sá xa xôi cách trở và phương tiện đi lại còn khó khăn, nên Bác đã không thể đến dự và chỉ đạo Đại hội được. Thay mặt Đảng và Chính phủ, Bác Hồ đã gửi thư đến Đại hội. Tại Đại hội, các đại biểu đã vinh dự được đón nhận bức thư lịch sử của Bác do đồng chí Tố Hữu, Phái viên Trung ương (lúc này là Phó Bí thư Xứ ủy Trung Bộ) và đồng chí Bùi San, Phái viên Xứ ủy mang đến. Tư tưởng bao trùm trong nội dung thư chính là tinh thần đoàn kết các dân tộc trong cả nước: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Các đại biểu vô cùng xúc động, lắng nghe từng lời căn dặn, thăm hỏi ân cần của Bác Hồ - Vị Chủ tịch nước muôn vàn kính yêu của dân tộc. Tình cảm của Bác đối với Đại hội được thể hiện ngay trong đoạn mở đầu của bức thư: “Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật vui vẻ. Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự hội được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào”. Lời thư ngắn gọn nhưng chứa đựng tình cảm yêu thương, sự quan tâm sâu sắc của Người đối với đồng bào các DTTS miền Nam và Tây Nguyên. Trong toàn bộ nội dung thư, từng đoạn, từng câu chữ của Bác luôn đề cập đến vấn đề đoàn kết các dân tộc để chống âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Những từ “ta”, “chúng ta” được Bác lặp đi, lặp lại nhiều lần như để khẳng định và nhấn mạnh một cái “chung”, một chân lý. Trong thư Bác nêu rõ quyền lợi và trách nhiệm chung của cộng đồng các DTTS cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam “nước Việt Nam là một”, “nước Việt Nam là nước chung của chúng ta”… Trong tình hình đất nước lâm nguy trước nạn ngoại xâm, Bác tha thiết kêu gọi: “tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”… Nội dung thư của Bác nêu cao tinh thần đoàn kết của đồng bào các dân tộc và vạch rõ âm mưu thâm độc của thực dân Pháp hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân của nhân dân ta. Người căn dặn đồng bào các dân tộc phải đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết đấu tranh đập tan những âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp, góp phần bảo vệ chính quyền, giữ gìn nền độc lập của Tổ quốc. Người chỉ rõ: “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết tâm chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của chúng ta”. Nội dung thư Bác Hồ gửi Đại hội như một lời Hịch, kêu gọi đồng bào các dân tộc đoàn kết chống kẻ thù xâm lược. Thư Bác Hồ gửi đã được dịch ra nhiều thứ tiếng của đồng bào các dân tộc để đọc tại Đại hội (ông Nay Phin, là người trực tiếp dịch thư Bác sang tiếng Jrai để đọc tại Đại hội). Qua Đại hội, các đại biểu càng hiểu thêm âm mưu thâm độc, nhằm chia rẽ dân tộc ta của thực dân Pháp. Các đại biểu nhận thức rõ hơn chủ trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn của Đảng và Chính phủ, đồng lòng quyết tâm đứng lên cùng toàn dân tộc đánh Pháp và xây dựng quê hương. Sau khi Đại hội kết thúc, các đại biểu trở về các địa phương đã nhanh chóng phổ biến tinh thần thư Bác cho đồng bào mình ở các buôn làng, tuyên truyền, vận động đoàn kết đánh Pháp. 
 
Khắc sâu lời căn dặn của Bác, đồng bào DTTS miền Nam, Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng đã đoàn kết một lòng vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ đứng lên cùng nhân dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp thắng lợi và tiếp tục tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, góp phần cùng nhân dân miền Nam và cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ lịch sử “đánh cho Mỹ cút”, “đánh cho ngụy nhào”, giành thắng lợi to lớn trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975 lịch sử, giang sơn nối liền một dải, Bắc - Nam sum họp một nhà.
 
(CÒN NỮA)
 
ĐAN THANH (Lược ghi)