Thứ 4, 19/03/2025, 00:25

Quốc hội Việt Nam 70 năm hình thành và phát triển

10:05, 17/05/2016

Giữa tháng 8/1945, khi chủ nghĩa phát xít tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh và lực lượng cách mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong cả nước, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945 để quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước.

I. TỪ QUỐC DÂN ĐẠI HỘI TÂN TRÀO ĐẾN CUỘC TỔNG TUYỂN CỬ ĐẦU TIÊN 
 
1. Quốc dân Đại hội Tân Trào - Tiền thân của Quốc hội Việt Nam
 
Giữa tháng 8/1945, khi chủ nghĩa phát xít tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh và lực lượng cách mạng Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong cả nước, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945 để quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước. 
 
Chiều ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (huyện Sơn Dương, Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh đã khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, giới, dân tộc, đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào, để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về nhân dân. 
 
Đại hội đại biểu quốc dân đã thông qua ba quyết định lớn: Nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; Thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện; Thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đồng thời, Đại hội cũng quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài “Tiến quân ca”.
 
Quốc dân Đại hội Tân Trào là một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta; một Đại hội mang tầm vóc lịch sử của một Quốc hội, một cơ quan quyền lực nhà nước lâm thời của nước Việt Nam. 
 
2. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam
 
Thực hiện Nghị quyết Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Đại hội đại biểu quốc dân, nhân dân Việt Nam đã nhất tề nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành được chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
 
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. 
 
Ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…” . 
 
Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh số 14-SL quy định mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội; cuộc Tổng tuyển cử thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu.
 
Ngày 06/01/1946, đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Tổ quốc, toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ đã đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội. Cuộc Tổng tuyển cử bầu cơ quan đại diện dân cử đầu tiên của nước Việt Nam mới đã thắng lợi tại tất cả 71 tỉnh, thành phố trong cả nước, với số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%; bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%). 
 
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam; khẳng định niềm tin tuyệt đối của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tinh thần yêu nước của nhân dân ta; là sự biểu thị khát vọng dân chủ của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
 
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
 
Trong quá trình hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam đã trải qua 13 khóa hoạt động, thông qua 5 bản Hiến pháp với nhiều đổi mới về tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước. Quá trình phát triển của Quốc hội nước ta trải qua các thời kỳ sau:
 
1. Thời kỳ 1946 - 1960
 
Giai đoạn từ 1946 đến 1954, Quốc hội nước ta đã cùng với dân tộc trải qua nhiều khó khăn, gian khó để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Trong năm 1946, Quốc hội đã đoàn kết, thống nhất dân tộc, chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), Quốc hội đã cùng với nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, quyết liệt trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa... kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên phủ. Nét rất đặc biệt trong giai đoạn này – Quốc hội kháng chiến – là để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, Quốc hội đã giao quyền hạn tập trung vào Chính phủ; đồng thời, Ban Thường trực Quốc hội luôn ở bên cạnh Chính phủ để bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ về mọi công việc kháng chiến. 
 
Giai đoạn từ 1954 đến 1960, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Bắc – Nam, Quốc hội đã cùng với nhân dân đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế - xã hội theo con đường XHCN; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến hành đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất đất nước. 
 
Tại kỳ họp thứ nhất, để tập hợp các lực lượng đại diện các đảng phái, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị và được toàn thể Quốc hội chấp nhận mở rộng thành phần Quốc hội thêm 70 đại biểu không qua bầu cử. Như vậy, tổng số đại biểu Quốc hội khóa I nâng lên thành 403 đại biểu. Trong 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã tổ chức 12 kỳ họp, xem xét và thông qua bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, 16 đạo luật và 50 nghị quyết... Đánh giá công lao to lớn của Quốc hội khóa I, tại kỳ họp thứ 12, kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quốc hội ta đã hết lòng vì dân vì nước, đã làm trọn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những đại biểu của nhân dân”.
          
2. Thời kỳ từ 1960 đến 1980 (Quốc hội có 5 khóa hoạt động)
          
2.1. Quốc hội khóa II (1960 - 1964)
 
Bầu cử ngày 08/5/1960; tổng số 453 đại biểu, trong đó có 91 đại biểu miền Nam lưu nhiệm theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I. Quốc hội khóa II có 4 năm hoạt động, tiến hành 8 kỳ họp, thông qua 6 đạo luật quan trọng về tổ chức của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 9 pháp lệnh. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), Cương lĩnh hành động của toàn dân nhằm thực hiện nhiệm vụ cải tạo XHCN và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc; phê chuẩn việc thành lập các tổ chức và cơ quan nhà nước…
      
2.2. Quốc hội khóa III (1964 - 1971) 
 
Bầu cử ngày 26/4/1964; tổng số có 453 đại biểu, trong đó có 87 đại biểu Quốc hội khóa I thuộc các tỉnh miền Nam được lưu nhiệm. Hoạt động trong thời chiến, nên Quốc hội khóa III kéo dài trong 7 năm, với 7 kỳ họp; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 95 phiên. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua nhiều nghị quyết về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, về tổ chức hành chính, về nhân sự phục vụ sự nghiệp xây dựng miền Bắc, phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, mọi yêu cầu nhiệm vụ về quân sự, kinh tế, chính trị... đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời. Tại phiên họp ngày 10/4/1965, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thêm một số quyền hạn trong trường hợp Quốc hội không có điều kiện thuận tiện để họp. Theo đó, những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác lớn về chống Mỹ, cứu nước, về chính sách kinh tế thời chiến, về đối ngoại đều được Chính phủ kịp thời báo cáo với Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn nhanh chóng, là điều kiện quan trọng bảo đảm động viên kịp thời những yêu cầu của chiến tranh. 
      
2.3. Quốc hội khóa IV (1971 - 1975) 
 
Bầu cử ngày 11/4/1971; tổng số có 420 đại biểu. Trong 4 năm hoạt động, Quốc hội khóa IV họp 5 kỳ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp 53 phiên và đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu của các kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế; phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm, góp phần quan trọng vào việc củng cố và xây dựng miền Bắc XHCN, bảo đảm sức mạnh để đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đàm phán và ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1973). Hoạt động của Quốc hội đã góp phần quan trọng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đánh đổ chế độ thực dân mới ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước.
       
2.4. Quốc hội khóa V (1975 - 1976)
 
Bầu cử ngày 06/4/1975; tổng số có 424 đại biểu. Trong bối cảnh miền Nam vừa mới giải phóng (30/4/1975), Quốc hội khóa V hoạt động chưa đầy 2 năm, nên chỉ họp 2 kỳ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp 10 phiên, nhưng đã quyết định được nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Đặc biệt, Quốc hội đã góp phần quan trọng trong việc thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. 
 
Ngày 27/10/1975, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên đặc biệt để thảo luận, thông qua đề án thực hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, cử đoàn đại biểu miền Bắc tham dự Hội nghị hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Hội nghị hiệp thương đã khẳng định “cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn vững chắc nhất”. Tại kỳ họp thứ hai (tháng 12/1975), Quốc hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả Hội nghị hiệp thương mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất. 
         
2.5. Quốc hội khóa VI (1976 - 1981)
 
Bầu cử ngày 25/4/1976 là Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất; tổng số 492 đại biểu. Quốc hội khóa VI quyết định đổi tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Quốc ca là bài Tiến quân ca; chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh; quy định Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất là Hà Nội. Đồng thời, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội khóa VI đã họp 7 kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 7 (tháng 12/1980), Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp mới  – Hiến pháp 1980. Đây là bản Hiến pháp thứ ba được Quốc hội thông qua để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới. 
          
3. Thời kỳ từ 1980 đến 1992
 
Đây là thời kỳ Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước 1981. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. 
 
Trong thời kỳ này, Quốc hội trải qua 2 khóa hoạt động:
         
3.1. Quốc hội khóa VII (1981 - 1987) 
 
Bầu cử ngày 26/4/1981; tổng số 496 đại biểu. Nhiệm kỳ khóa VII Quốc hội đã tiến hành 12 kỳ họp, ban hành 10 đạo luật, 35 nghị quyết; Hội đồng Nhà nước ban hành 15 pháp lệnh. Quốc hội đã triển khai thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: Thành lập các cơ quan nhà nước ở Trung ương; thông qua các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm; quyết định các vấn đề cử và miễn nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng... Hoạt động giám sát cũng được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước coi trọng, tập trung vào các vấn đề quản lý kinh tế - xã hội, việc thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp đã có bước cải tiến; hoạt động đối ngoại luôn tuân thủ nguyên tắc nhất quán, ủng hộ những sáng kiến hòa bình, bảo đảm an ninh chung của nhân loại.   
         
3.2. Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992) 
 
Bầu cử ngày 19/4/1987; tổng số có 496 đại biểu; là Quốc hội của giai đoạn đầu sự nghiệp Đổi mới đất nước do Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra. Nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII đã tiến hành 11 kỳ họp, thông qua 2 bộ luật, 25 đạo luật; Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh; thông qua Nghị quyết về ban hành Hiến pháp năm 1992 (tại kỳ họp thứ 11). Hiến pháp 1992 đã kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước đây; thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và tạo cơ sở pháp lý đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Trong việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, Quốc hội đã quan tâm đến những vấn đề nóng bỏng, cấp bách về kinh tế - xã hội và thi hành pháp luật, nhằm nâng cao vai trò và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội. 
           
4. Thời kỳ từ 1992 đến nay
 
Đây là thời kỳ Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1992. Quốc hội đã có những đổi mới cơ bản, khắc phục tính hình thức, hạn chế trong hoạt động ở các khóa Quốc hội trước và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng là cơ quan đại biểu dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
 
Trong thời kỳ này, Quốc hội trải qua 5 khóa hoạt động:
         
4.1. Quốc hội khóa IX (1992 - 1997) 
 
Bầu cử ngày 19/7/1992; tổng số có 395 đại biểu. Quốc hội khóa IX hoạt động theo quy định của Hiến pháp 1992, đã tiến hành 11 kỳ họp, ban hành 36 luật, bộ luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 43 pháp lệnh. Quốc hội đã có nhiều quyết sách quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Công tác giám sát của Quốc hội đã có những đổi mới; chú trọng đến công tác dân nguyện, tiếp dân và giải quyết các đơn thư của nhân dân. Quốc hội khóa IX có vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội lần thứ VII của Đảng đề ra. Hoạt động của Quốc hội đã góp phần đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện, phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.  
       
4.2. Quốc hội khóa X (1997 - 2002) 
 
Bầu cử ngày 20/7/1997; tổng số 450 đại biểu. Quốc hội khóa X đã tiến hành 11 kỳ họp, ban hành 01 bộ luật, 31 luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 39 pháp lệnh. Điểm nổi bật là tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, nhằm thể chế hóa đường lối của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Cùng với hoạt động lập pháp, Quốc hội ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: Quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, các vấn đề về bảo đảm an ninh, quốc phòng. Hoạt động giám sát của Quốc hội khóa X cũng được triển khai tích cực, có sự đổi mới cả về nội dung và hình thức giám sát. Hoạt động đối ngoại của Quốc hội được triển khai chủ động trên nhiều địa bàn, với nhiều chủ thể khác nhau nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động trên các diễn đàn nghị viện đa phương.
        
4.3. Quốc hội khóa XI (2002 - 2007) 
 
Bầu cử ngày 19/5/2002; tổng số 498 đại biểu; trong đó số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách đã tăng lên đáng kể (120 đại biểu, chiếm gần 25% tổng số đại biểu Quốc hội). Trong lĩnh vực lập pháp, Quốc hội đã ban hành 84 luật, bộ luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 31 pháp lệnh. Chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được thông qua đã bám sát yêu cầu của cuộc sống, phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội. Hoạt động giám sát có bước đổi mới, nội dung giám sát đã tập trung vào các vấn đề bức xúc được dư luận phản ánh và nhân dân quan tâm. Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng thực chất hơn, từ tổ chức bộ máy nhà nước, nhân sự cấp cao thuộc thẩm quyền của Quốc hội, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước cho đến chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới...
        
4.4. Quốc hội khóa XII (2007 - 2011) 
 
Bầu cử ngày 20/5/2007; tổng số 493 đại biểu. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách cũng được tăng cường với 145 đại biểu (chiếm 29,41% tổng số đại biểu Quốc hội). Quốc hội khóa XII đã ban hành 68 luật, 12 nghị quyết; Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết. Các văn bản pháp luật được ban hành bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và điều hành kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động giám sát được tăng cường, có nhiều đổi mới về cách thức tiến hành, nhất là chất vấn và giám sát chuyên đề. Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo hướng tập trung hơn, thực chất hơn, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân, làm rõ thêm tình hình, nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nghị quyết của Quốc hội. Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
         
4.5. Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016) 
 
Bầu ngày 22/5/2011; đây là lần đầu tiên cử tri cả nước tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 trong cùng một ngày với quy mô lớn; tổng số 500 đại biểu Quốc hội. Thành tựu lớn nhất trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội trong nhiệm kỳ này là Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Hiến pháp năm 2013 (tại kỳ họp thứ sáu, vào ngày 28/11/2013). Đây là bản Hiến pháp thể hiện tinh thần đổi mới sâu sắc, tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội trên nền tảng dân chủ, pháp quyền và tạo động lực mạnh mẽ để đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011). 
 
Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII cũng đánh dấu mốc lịch sử khi lần đầu tiên trong gần 70 năm hoạt động của mình, Quốc hội đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; đăng cai tổ chức Đại hội đồng lần thứ 132 của Liên minh nghị viện thế giới tại Hà Nội trong tháng 3/2015 là một sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa lịch sử ngoại giao hết sức to lớn, thể hiện tinh thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng của Quốc hội nước ta, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; đã ban hành nghị quyết về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. 
 
BÁO LÂM ĐỒNG