Hoạt động đoàn ĐBQH tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV

04:10, 26/10/2016

(LĐ online) - Sáng 26/10/2016, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015.

(LĐ online) - Sáng 26/10/2016, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015.
 
ĐBQH Nguyễn Văn Hiển - tỉnh Lâm Đồng phát biểu ý kiến tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015
ĐBQH Nguyễn Văn Hiển - tỉnh Lâm Đồng phát biểu ý kiến tại hội trường về dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015
ĐBQH Nguyễn Văn Hiển, Đoàn Lâm Đồng đã tham gia góp ý, tập trung  đề nghị bổ sung, thay đổi một số Điều cụ thể như sau:
 
Tại khoản 1 Điều 9: Nhất trí bổ sung nội dung phân loại “Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện”. Tuy nhiên, đề nghị viết gọn lại, và chỉ cần bổ sung cụm từ “do cá nhân hoặc do pháp nhân thương mại thực hiện” vào trước cụm từ “được phân thành bốn loại sau đây”, cụ thể:
 
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm do cá nhân hoặc do pháp nhân thương mại thực hiện được phân thành bốn loại sau đây:
 
1. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
 
2. Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
 
3. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
 
4. Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
 
Tại khoản 2 Điều 12: Đề nghị sửa theo hướng kế thừa quan điểm của Bộ luật Hình sự 1999 là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Tại khoản 2 điều 12 đã liệt kê cụ thể. 
 
Tại điểm d và điểm đ khoản 2 và khoản 3 Điều 14:
 
Nhất trí như Dự thảo sửa đổi, bổ sung điểm d và điểm đ khoản 2. 
 
Về khoản 3 của Dự thảo sửa đổi, bổ sung, đối chiếu với khoản 3 của Điều 14 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 thì không có sự khác nhau, đề nghị xem lại. Tại khoản 2 Điều 14 (sửa đổi) quy định:
 
“Người chuẩn bị phạm một trong các tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự:
 
b)…Điều 134, các khoản 3 và 4 (tội cố ý gây thương tích…)
 
c)…Điều 169, các khoản 2, 3 và 4 (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản)”. 
 
Tuy nhiên tại khoản 3 và 4 Điều 134 (dự thảo); khoản 3 và 4 Điều 169 đều có yếu tố định lượng là tình tiết định khung, cụ thể như:
 
Khoản 3 Điều 134: Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp…
 
Khoản 4 Điều 134: a) Làm chết 02 người trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. 
 
Khoản 3 Điều 169: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị bắt làm con tin mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân 46% trở lên.
 
Khoản 4 Điều 169: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của 02 người trở lên mà tỷ lệ của mỗi người 46% trở lên; d) Làm chết người.
 
Nếu mới chỉ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì chưa thể có tỷ lệ tổn thương cơ thể, chưa tính được trị giá tài sản chiếm đoạt và như vậy cũng chưa có căn cứ để xác định đã phạm vào khoản 3 hay khoản 4 các Điều này. Do đó quy định phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội là không có tính khả thi.
 
Tại khoản 4 Điều 17: Viết không rõ, vì khoản 3 của Điều 17  đã nêu: “Người đồng phạm …….. tham gia thực hiện tội phạm với vai trò là người tổ chức, người thực hành, người xúi giục hoặc người giúp sức”. Vậy thế nào là hành vi vượt quá của người thực hành?. Do vậy có ý kiến đề nghị sửa khoản 4 của Điều 17 như sau:
 
“4. Người đồng phạm với vai trò là người tổ chức không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành”.
 
Tại khoản 4 Điều 29: Đề nghị bổ sung cụm từ “ các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình” vào trước cụm từ “điều tra, truy tố hoặc xét xử,”, cụ thể:
 
"4. Pháp nhân thương mại phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.”
 
Tại Điều 35:  về “Phạt tiền”  
 
Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm quy định: Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào số tiền phạt Tòa án tuyên. Có thể cứ 01 ngày tạm giữ hoặc tạm giam được trừ số tiền bằng 3 ngày lương tối thiểu. Bởi vì, khi người thực hiện hành vi phạm tội bị tạm giữ, tạm giam để điều tra, sau đó Tòa án xét xử tuyên hình phạt tiền đối với người phạm tội thì thời gian tạm giữ, tạm giam không được tính làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Trong khi đó đối với hình phạt cải tạo không giam giữ thì Bộ luật quy định thời gian tạm giữ, tạm giam được được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. 
 
Tại khoản 3 Điều 54: Có ý kiến cho rằng cụm từ “ dưới mức” không rõ dưới mức thấp nhất là bao nhiêu, đề nghị bỏ cụm từ dưới mức.
 
Tại Điều 134 (sửa đổi):
 
Có ý kiến cho rằng quy định tại điểm b khoản 1 sử dụng tên loại hóa chất cụ thể là a-xít sunfuric là không cần thiết, không phải đặc trưng cho hóa chất vì nhiều loại khác cũng rất nguy hiểm. Đề nghị sửa lại, gọi chung là các hóa chất nguy hiểm.
 
Đề nghị bỏ khoản 5 vì khoản 3, 4 Điều này bắt buộc phải có yếu tố định lượng về tỷ lệ tổn thương cơ thể mới có căn cứ xử lý hình sự; ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội không thể gây thương tích được, do đó không thể chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn này.
 
Tại Điều 167: về “Tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân”:
 
Có ý kiến đề nghị nghiên cứu tách Điều này thành 03 tội là tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; tội xâm phạm quyền tiếp cận thông tin và tội xâm phạm quyền biểu tình của công dân vì đây là 03 lĩnh vực riêng biệt, hành vi khách quan của tội phạm và hậu quả của tội phạm không đồng nhất nhau.
 
Tại Điều 175: Về “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
 
Đây là loại tội phạm xảy ra rất phổ biến trong những năm gần đây, nhưng thực tế việc xử lý hình sự đối với loại tội này rất ít, vì Điều 140 BLHS hiện hành có nhiều bất cập, quy định một số tình tiết định tội rất khó chứng minh trong thực tiễn, gây khó khăn rất nhiều cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. BLHS 2015 đã sửa đổi theo hướng cụ thể, rõ ràng hơn trong việc chứng minh hành vi phạm tội. Tuy nhiên vẫn còn những vướng mắc, bất cập sẽ gặp phải khi áp dụng vào thực tiễn, cụ thể:
 
Tại điểm a khoản 1 quy định tình tiết “dùng thủ đoạn gian dối” vẫn chưa thực sự tháo gỡ khó khăn trong việc chứng minh tội phạm, vì thực tế rất nhiều trường hợp đối tượng vay, mượn nhưng không “dùng thủ đoạn gian dối” gì cả mà vẫn chiếm đoạt, tiêu xài hết thì cũng sẽ không xử lý trách nhiệm hình sự được. Hoặc tình tiết “mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”, đây cũng là tình tiết tạo điều kiện cho đối tượng lợi dụng “lách luật”, gây khó khăn trong công tác xử lý tội phạm; vì khi chủ tài sản làm đơn tố cáo thì đối tượng đã không còn tài sản gì và thực tế phần lớn là đã tẩu tán tài sản cho người thân đứng tên. Về góc độ pháp lý ở đây nảy sinh 2 vấn đề: thứ nhất, nếu đối tượng có điều kiện, khả năng, nhưng không chứng minh được là “cố tình” thì sẽ không xử lý hình sự được, mà “cố tình” nằm trong ý thức, bộc lộ như thế nào thì xác định là “cố tình”; thứ hai, nếu chứng minh được đối tượng cố tình không trả, nhưng lại không còn điều kiện, khả năng thì cũng sẽ sẽ không xử lý hình sự được.
 
Tại điểm b khoản 1 quy định tình tiết “đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp” vẫn chưa đảm bảo tính khả thi, vì Bộ luật chưa giải thích hoặc quy định cụ thể thế nào là sử dụng vào mục đích bất hợp pháp; việc này sẽ dẫn đến các cách hiểu khác nhau và tiếp tục gây tranh cãi giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
 
Vì vậy đề nghị gộp các điểm a, b lại và chỉ quy định như sau: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, đến thời hạn phải trả lại tài sản nhưng không trả lại tài sản đó”. Quy định như vậy nhằm xác định cho mọi người phải ý thức về trách nhiệm, hậu quả pháp lý ngay khi thực hiện việc vay, mượn, thuê, nhận tài sản.
 
Tại Điều 190: về “tội sản xuất, buôn bán hàng cấm”
 
Tại điểm b khoản 1: Thống nhất theo phương án 2, cần quy định cụ thể định lượng hàng cấm để tránh phải ban hành thêm văn bản hướng dẫn thi hành; đồng thời đề nghị sửa cụm từ “Hàng phạm pháp là thuốc lá điếu sản xuất tại nước ngoài” thành “Hàng phạm pháp là thuốc lá điếu nhập lậu” cho đúng nghĩa và thống nhất với cách dùng từ ở các điều khoản phía sau.
 
Tại điểm e khoản 2: Thống nhất theo phương án 2, đề nghị sửa cụm từ “Hàng phạm pháp là thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.001 bao đến 4.500 bao” thành “Hàng phạm pháp là thuốc lá điếu nhập lậu từ trên 3.000 bao đến 4.500 bao” cho đảm bảo chặt chẽ về mặt định lượng.
 
Tại điểm b khoản 3: Thống nhất theo phương án 2, đề nghị sửa cụm từ “Hàng phạm pháp là thuốc lá điếu nhập lậu 4.501 bao trở lên” thành “Hàng phạm pháp là thuốc lá điếu nhập lậu từ trên 4.500 bao trở lên”.
 
Tại Điều 191: về tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
 
 Tại điểm b khoản 1: Thống nhất theo phương án 2, cần quy định cụ thể định lượng hàng cấm để tránh phải ban hành thêm văn bản hướng dẫn thi hành.
 
Tại điểm e khoản 2: Thống nhất theo phương án 2, đề nghị sửa cụm số “3.001” thành “trên 3.000”.
 
Tại điểm b khoản 3: Thống nhất theo phương án 2, đề nghị sửa cụm số “4.501” thành “từ trên 4.500”.
 
Tại Điều 220: về “Tội vi phạm qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng”.
 
Có ý kiến cho rằng, khoản 1 Điều này chỉ quy định hành vi quản lý việc đầu tư và quản lý việc sử dụng vốn đầu tư công mà không quy định hành vi sử dụng vốn đầu tư công, nên việc sử dụng từ “và” tại tên điều luật là không phù hợp, dẫn đến cách hiểu tên gọi của điều luật thì quy định hành vi phạm tội sử dụng vốn đầu tư công, nhưng trong nội dung điều luật lại không điều chỉnh hành vi này. 
 
Tại Điều 229: về “Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai”
 
Có ý kiến cho rằng quy định tại điểm a khoản 1, điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 là chưa phân hóa đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất.
 
Có ý kiến đề nghị bỏ hình phạt cải tạo không giam giữ tại khoản 1, tăng mức hình phạt tù tại khoản 2, 3 và cho rằng, đây thực chất là hành vi biến tướng của hành vi tham nhũng.
 
Tại Điều 235: về “Tội gây ô nhiễm môi trường”
 
Có ý kiến đề nghị thống nhất quan điểm xử lý tội phạm về môi trường cần căn cứ vào mức độ thiệt hại đối với môi trường do hành vi đó gây ra như gây suy giảm hoặc hủy hoại chất lượng môi trường sống, không truy cứu những hành vi vi phạm về quản lý bảo vệ môi trường chung chung, đồng thời cần phân ra hành vi cố ý và hành vi vô ý. 
 
Có ý kiến đề nghị sửa điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3, bỏ cụm từ “hoặc chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy” vì chỉ cần quy định chôn lấp, đổ thải ra môi trường chất thải nguy hại đã bao gồm cả chất hữu cơ khó phân hủy cần phải loại trừ theo quy định tại Phụ lục A Công ước Stockholm.
 
Có ý kiến đề nghị sửa khoản 3, bổ sung thêm hành vi xả nước thải được thực hiện với việc xây lắp, lắp đặt thiết bị đường ống hoặc đường thải khác để xả chất thải không qua xử lý ra môi trường nhằm che giấu sự phát hiện của cơ quan chức năng.
 
Tại Điều 243: về tội hủy hoại rừng
 
Điểm đ khoản 1 quy định: “Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ trên 30.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên; từ trên 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng đối với rừng sản xuất là rừng trồng, rừng khoanh nuôi tái sinh trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích rừng bị đốt, bị phá hoặc có hành vi khác huỷ hoại rừng không tập trung mà phân tán, rải rác trong cùng một tiểu khu hoặc nhiều tiểu khu”.
 
Như vậy BLHS 2015 mới chỉ quy định tính giá trị thiệt hại lâm sản bằng tiền trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích rừng bị đốt, bị phá hoặc có hành vi khác huỷ hoại rừng không tập trung mà phân tán, rải rác trong cùng một tiểu khu hoặc nhiều tiểu khu đối với loại rừng sản xuất; chưa quy định giá trị thiệt hại lâm sản bằng tiền trong trường hợp hủy hoại rừng đặc dụng, rừng phòng hộ mà không tính được bằng diện tích hoặc hủy hoại phân tán, rải rác. Đây là thiếu sót rất nghiêm trọng, đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung lần này.
 
Tại Điều 260: về “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
 
Đề nghị sửa lại tên tội danh cho phù hợp với nội dung điều luật,  nên giữ nguyên tên điều luật như quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 vì như vậy mới rõ ràng, phù hợp. 
 
Kết cấu tại Điều này chưa hợp lý, hình phạt không thống nhất từ thấp đến cao, giữa cấu thành tội phạm và cấu thành định khung trùng nhau. Đề nghị xây dựng lại kết cấu của Điều này cho phù hợp, quy định khung hình phạt từ thấp đến cao.
 
PV