(LĐ online) - Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thể giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất sâu sắc phong phú cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
(LĐ online) - Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, một lãnh tụ cách mạng thể giới đã bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh rất sâu sắc phong phú cả về lý luận và thực tiễn, đã trở thành một bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
I. HỒ CHÍ MINH - LÃNH TỤ, NHÀ TƯ TƯỞNG ĐẶC BIỆT QUAN TÂM ĐẾN VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC
1. Hồ Chí Minh, lãnh tụ có nhiều cống hiến về tư tưởng đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cứu nước bằng cách giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng cho mọi người. Đồng thời, Người còn là hiện thân của đạo đức cách mạng, nêu gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Người là bậc đại trí, đại nhân, đại dũng.
Có thể nói, tư tưởng đạo đức học Hồ Chí Minh là một bộ phận lớn của triết lý Hồ Chí Minh. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, trong tất cả các lãnh tụ cách mạng thế giới ở thế kỷ XX, Cụ Hồ là người nhấn mạnh nhiều nhất đến đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng chỉ giác ngộ chính trị chưa đủ, còn phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, đạo đức dân tộc. Bác Hồ từng dạy: đạo đức tăng sức mạnh gấp bội.
Ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất hoà quyện giữa chính trị, đạo đức, văn hoá, nhân văn: một nền chính trị rất đạo đức, rất văn hoá và đạo đức, văn hoá lại rất chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là tư tưởng chính trị, định hướng chính trị nhưng dễ dàng tìm thấy một đạo đức trong sáng, một chủ nghĩa nhân văn hoàn thiện, một nền văn hoá của tương lai. Sự thống nhất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, nói đi đôi với làm; giữa đức và tài; giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện đối với mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu rèn luyện đạo đức trong các môi trường gia đình, công sở, xã hội. Tấm gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, lâu dài trong phạm vi dân tộc và quốc tế. Người đề cập đạo đức trong nhiều mối quan hệ khác nhau, nhưng chủ yếu là các mối quan hệ với mình, với người và với việc.
a. Quan niệm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, bởi:
(1) Đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
(2) Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là công việc vẻ vang nhưng cũng rất khó khăn, nặng nề, “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Người cách mạng muốn cho dân tin, dân yêu thì phải có tư cách đạo đức đã.
(3) Trong điều kiện Đảng cầm quyền, với nguy cơ thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên; Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
(4) Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Người luôn đặt đức - tài trong mối quan hệ gắn bó mật thiết. Đức là gốc nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, năng lực và phẩm chất phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Người kết luận: “Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó”,
- Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản luôn sống và chiến đấu cho lý tưởng đó của loài người thành hiện thực. Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Và cuộc đời của Người chính là một tấm gương đạo đức sáng ngời, có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới.
b. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm về chuẩn mực đạo đức cách mạng bao gồm: Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất; Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người, đối với người cán bộ, đảng viên lại càng cần thiết hơn; thương yêu con người, sống có tình nghĩa là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất; tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa, nó được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân.
c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới của Hồ Chí Minh là:
Thứ nhất, nói đi đôi với làm là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới; nêu gương về đạo đức là một nét đẹp trong truyền thống phương Đông. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Hồ Chí Minh cho rằng, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng đạo làm gương. Nêu gương về đạo đức phải diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, ở trong gia đình, cũng như trong xã hội.
Thứ hai, xây đi đôi với chống, muốn chống phải xây, chống nhằm mục đích xây. Để xây và chống có kết quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, phải kiên quyết loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Thứ ba, việc tu dưỡng đạo đức phải kiên trì, bền bỉ, suốt đời; phải thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi quan hệ xã hội; phải được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người…Bởi vì theo Bác: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Tấm gương đạo đức của Hồ Chủ tịch là tấm gương chung cho cả dân tộc, cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi về sau tự hào và học tập, làm theo.
2. Bản chất, đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sáng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt đời tranh đấu cho Đảng, cho cách mạng; luôn đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình; là sự kết hợp đạo đức truyền thống của dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam.
Người nhấn mạnh tác dụng to lớn của đạo đức cách mạng; đánh giá cao đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, sống có tình có nghĩa, có thủy có chung, có nhân có đức, có trước có sau, biết trung, biết hiếu; tiếp thu, trân trọng mặt tích cực, phê phán mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo…
Chủ nghĩa Mác-Lênin thực sự đem đến cho Hồ Chí Minh một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Từ đó, Người nâng cao đạo đức truyền thống của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức phương Đông, phương Tây để xây dựng một nền đạo đức mới Việt Nam, tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn, kết hợp với sức mạnh vật chất đưa dân tộc Việt Nam đi tới những thắng lợi vẻ vang.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng
Từ rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông; cây không có gốc thì cây héo, sông không có nguồn thì sông cạn. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản
Trong di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, Người đã nêu bật những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới; của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam. Những phẩm chất đó là:
Một là, “Trung với nước, hiếu với dân”.
Đây là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác; có nội dung mới, cách mạng, cao rộng hơn quan niệm truyền thống; không phải trung với vua và chỉ có hiếu với cha mẹ, mà “trung với nước, hiếu với dân”. Nội dung “Trung với nước” theo tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, xã hội; thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước. Nước ở đây là nước của dân và dân là chủ nhân của nước. Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho cách mạng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phải hoà mình vào quần chúng; tin, hiểu và lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu; đoàn kết quần chúng chặt chẽ xung quanh Đảng, động viên quần chúng hăng hái thực hiện chính sách và nghị quyết của Đảng; phải lấy dân làm gốc, bao nhiêu lợi ích đều vì dân…; có như thế cách mạng mới đi đến thành công.
Hai là “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Đây là những khái niệm đạo đức phương Đông, đạo đức truyền thống Việt Nam được Hồ Chí Minh tiếp thu chọn lọc, đưa vào những yêu cầu và nội dung mới. Phẩm chất này gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân”.
Theo Hồ Chí Minh, Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, tự lực cánh sinh, có kế hoạch, sáng tạo và có năng suất cao; Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân, tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, không phô trương, hình thức, xa xỉ, hoang phí...; Liêm là “Luôn luôn tôn trọng của công, của dân”, liêm khiết trong mọi hoàn cảnh “không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình”; Chính “nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn” đối với mình đối với người và đối với việc...; Chí công vô tư là “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Hồ Chí Minh còn nêu lên mối quan hệ giữa bốn phẩm chất đó: “Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn”; nếu “thiếu một đức, thì không thành người”. Và đối với cán bộ, đảng viên, cần, kiệm, liêm, chính lại càng cần thiết; càng có chức, có quyền càng cần phải cần kiệm, liêm, chính. Người viết: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. Đồng thời theo Bác, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”.
Hồ Chí Minh đòi hỏi thực hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”. Bởi vì, “chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là một thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, quan liêu mệnh lệnh, v.v...”. Chủ nghĩa cá nhân còn là mối nguy hại cho một Đảng, cho cả dân tộc: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Tuy nhiên, theo Hồ Chí Minh, cần phân biệt giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân, “đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân”. “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu”.
Ba là, yêu thương con người.
Từ lý luận cũng như thực tiễn, Hồ Chí Minh cho rằng, trên đời này có thể chia thành hai hạng người: người Thiện và người Ác và hai thứ việc: việc Chính và việc Tà. Người làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Khi trả lời các nhà báo, Người nói: Tôi yêu nhất điều thiện và ghét nhất điều ác.
Từ đó, Người quan niệm về con người rất toàn diện và độc đáo. Con người không phải thần thánh, có tốt có xấu ở trong lòng. Dù văn minh hay dã man, tốt hay xấu, đều có tình. Chúng ta cần làm cho trong mỗi con người phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi.
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chung chung trừu tượng, mà trước hết dành cho những người mất nước, người cùng khổ. Tình yêu thương con người của Bác hết sức sâu sắc, vừa bao la, vừa gần gũi đến từng số phận; đánh thức những gì tốt đẹp nhất trong mỗi con người, tạo điều kiện cho con người đứng dậy, vươn lên... Đó là tình yêu thương gắn liền với hành động cụ thể để mang lại cơm ăn, nước uống, trả lại nhân phẩm cho con người; nó vượt ra ngoài phạm vi dân tộc, vươn tới nhân loại cần lao.
Bốn là, tinh thần quốc tế chân chính, trong sáng là yêu cầu và phẩm chất đạo đức mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm xây dựng tình đoàn kết “bốn phương vô sản đều là anh em”; tình đoàn kết với các dân tộc, với nhân dân các nước, với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, hữu nghị, công lý và tiến bộ xã hội.
Cuộc đời của Người là hiện thân toàn vẹn về tấm gương đạo đức của một bậc đại nhân, thể hiện tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Đó cũng chính là phẩm chất đạo đức “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục” mà người cộng sản quyết tâm thực hiện để phục vụ quần chúng nhân dân.
3. Những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức mới
Nói đến tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, phải chú ý tới con đường và phương pháp hình thành đạo đức mới, được xây dựng theo một số nguyên tắc cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời thông qua thực tiễn cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời “gian nan rèn luyện mới thành công”. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng. Theo Bác, đã hoạt động cách mạng thì khó tránh khỏi sai lầm và khuyết điểm. Vấn đề là phải cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm. Do đó, tu dưỡng đạo đức mới phải gắn với thực tiễn, bền bỉ, mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Người viết: “Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”. Vì vậy, gột rửa chủ nghĩa cá nhân “ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày”.
Thứ hai, lời nói đi đôi với việc làm, nêu gương đạo đức.
Đây không chỉ là một nguyên tắc rèn luyện đạo đức, mà còn là ranh giới phân biệt giữa đạo đức cách mạng và không phải đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”. Người dạy “đảng viên đi trước”, để cho “làng nước theo sau”.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Theo Bác, đạo làm gương phải được quán triệt trong tất cả mọi đối tượng, mọi lĩnh vực: từ Đảng, Nhà nước, các đoàn thể đến nhà trường, gia đình, xã hội...Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên... Đạo làm gương, lời nói đi đôi với việc làm của Hồ Chí Minh thực sự có một sức thu hút mãnh liệt, khiến cho cả dân tộc, nhiều thế hệ, các giai tầng xã hội đều tin tưởng đi theo tiếng gọi của Người.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” .
Thứ ba, xây đi đôi với chống, xây dựng đạo đức mới, đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức.
Trong Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, không phải “người người đều tốt, việc việc đều hay”. Vả lại, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ chống lại cách mạng.
Có nhiều kẻ địch, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba loại: (i) Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; (ii) Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ; (iii) Chủ nghĩa cá nhân “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”, nó đẻ ra trăm thứ bệnh. Từ đó, Người kết luận: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”.
Vì vậy, cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, nhưng phải lấy xây làm chính.
Đối với từng người, Hồ Chí Minh yêu cầu “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Với việc, với người thì nhất thiết phải phê phán, đấu tranh, loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn. Hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra thì phải tiêu diệt, vì đó là cản trở lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Người yêu cầu lấy gương người tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Trong bối cảnh thực trạng đạo đức trong Đảng, đạo đức xã hội xuống cấp; nhiều cái xấu, cái ác, cái sai, cái vô đạo đức mà Người đã nêu lên từ những năm 1925-1927 trong Đường cách mệnh, đặc biệt từ năm 1945 trở đi, vẫn tiếp tục tồn tại và diễn biến hết sức phức tạp. Do đó, quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức mới đấu tranh với những hiện tượng phi đạo đức vẫn có ý nghĩa thời sự.
III. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên và xã hội ta hiện nay
Kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc và thời đại, tiêu biểu là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo vào điều kiện của đất nước, xét trên những mối quan hệ, những lĩnh vực then chốt nhất của đạo đức; xã hội ta đã có những chuyển biến quan trọng; đó là:
- Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình thành và ăn sâu vào tâm lý nhân dân.
- Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và năng lực cá nhân được khuyến khích; không khí dân chủ trong xã hội tăng lên.
- Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới, trung thành, dũng cảm, khiêm tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí cùng, lá lành đùm lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ đồng bào hoạn nạn... trở thành phong trào rộng lớn của quần chúng.
Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn nổi lên những mặt yếu kém về nhận thức, tư tưởng, chính trị dẫn tới phai nhạt lý tưởng và suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống. Các nghị quyết của Đảng đã thẳng thắn, nghiêm túc chỉ ra sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức có quyền. Nạn tham nhũng, tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến, lợi ích nhóm... Phải khẳng định rằng, bệnh đã trầm trọng, cho nên phải chữa tận gốc, chữa một cách cơ bản.
Về nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như sự phá hoại của kẻ địch, những tiêu cực của cơ chế thị trường, nước ta còn nghèo…thì phải nhấn mạnh tới những nguyên nhân chủ quan. Đó là: Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, thiếu những biện pháp hữu hiệu cả “xây” và “chống” trên lĩnh vực đạo đức; việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm; tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ Đảng; trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh...
2. Học tập, rèn luyện theo tấm gương và tư tương đạo đức Hồ Chí Minh
Lúc này đây, hơn bao giờ hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần phải phải nhận thức, quán triệt đầy đủ và rèn luyện đạo đức theo những nguyên tắc đã được Hồ Chí Minh nêu lên; đồng thời quyết tâm, quyết liệt và đồng bộ đẩy mạnh việc làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII đã đề ra. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần làm tốt các mặt sau đây:
Một là, Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới. Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân… Có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội. Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: ''Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức. Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm chi phối. Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt. Chân thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm… Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ; nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội…
Ba là, nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương. Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân; khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân. Coi trọng tự phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc với chính mình”…
Bốn là học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng thời phê phán tư chủ nghĩa tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, trước hết phải thấm nhuần tư tưởng của Người về vai trò và các phẩm chất đạo đức. Điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong sinh hoạt và công tác; không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi với làm; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết khắc phục sự suy thoái đạo đức cũng như những tiêu cực trong xã hội, tạo ra những chuẩn giá trị đạo đức mới phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
BAN BIÊN TẬP