Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa XII) tạo sự đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

10:12, 14/12/2017

(LĐ online) - Ngày 25/10/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng (khóa XII). Báo Điện tử Lâm Đồng xin giới thiệu một số nội dung cơ bản trong các nghị quyết. 

(LĐ online) - Ngày 25/10/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng (khóa XII). Báo Điện tử Lâm Đồng xin giới thiệu một số nội dung cơ bản trong các nghị quyết. 
 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 
 
Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 ( khóa XII) về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được người dân cả nước quan tâm, bởi vấn đề này đã được đề cập từ rất lâu, nhưng thực tế biên chế không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng thêm; bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực, hiệu quả, gây khó khăn, cản trở tiến trình phát triển đất nước… khiến người dân không hài lòng, làm giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
 
Thực tế mấy nhiệm kỳ Đại hội Đảng gần đây, BCH Trung ương, Bộ Chính trị đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện như: Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII) “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước”; Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về “Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Kết luận số 64-KL/TW của BCH Trung ương (khóa XI) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”. Nhờ đó, tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 
Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; đổi mới, sắp xếp chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra; việc kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức kết quả còn thấp; tổ chức bộ máy và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lặp, có biểu hiện hành chính hóa…
 
Qua một báo cáo giám sát mới nhất cho thấy, giai đoạn 2011 – 2016, tổng số lượng người làm việc vượt biên chế tại các tổng cục thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là 3.137 người (vượt 3,5%), còn tại các cục thuộc bộ, cơ quan ngang bộ là 1.234 người (vượt 8,6%); trong đó, đặc biệt có những bộ sử dụng vượt tỷ lệ rất cao từ 1/3 – 1/2 số biên chế được giao. Còn tại các địa phương đã có 31/63 tỉnh, thành sử dụng vượt tổng số 6.375 biên chế tại các đơn vị hành chính, cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh.
 
Hậu quả của bộ máy cồng kềnh, biên chế lớn, đội ngũ hưởng lương từ ngân sách nhiều, dẫn đến chi thường xuyên tăng cao, ước tính chiếm tới gần 70% ngân sách, không còn đủ nguồn lực chi cho đầu tư phát triển, gây bức xúc, lo lắng trong xã hội. Tình trạng này không sớm được giải quyết sẽ làm cho gánh nặng ngân sách không đảm bảo, buộc phải đi vay, dẫn đến nguy cơ “vỡ nợ”... 
 
Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu là do: Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện, sâu sắc; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực hiện việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ, thiếu tập trung thống nhất về một đầu mối, thậm chí còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, lợi ích cục bộ; công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thiếu thường xuyên; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích những nơi làm tốt và xử lý nghiêm đối với những nơi chưa làm tốt; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa được coi trọng đúng mức... 
 
Từ thực tế đó, Nghị quyết Trung ương lần này đã xác định 6 quan điểm về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong thời gian tới và đề ra mục tiêu tổng quát, cũng như mục tiêu cụ thể đến năm 2021 và từ năm 2021 đến năm 2030 cần phải đạt được. Theo đó, Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp chung và nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đối với hệ thống tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể từ Trung ương đến địa phương. 
 
Có thể nói, về mặt nhận thức thì hầu hết đều thống nhất việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách phải làm và không thể chậm trễ được nữa, nhưng quá trình thực hiện không hề đơn giản. Bởi vì, đây là vấn đề “rất lớn, rất quan trọng nhưng cũng rất khó, rất phức tạp và nhạy cảm” không chỉ liên quan đến vấn đề lý luận, mà còn đụng chạm đến quyền lợi, tâm tư, tình cảm của nhiều ngành, nhiều người… Hơn nữa, khi bắt tay thực hiện cụ thể việc bỏ ai, giữ ai ở lại, giải thể hay sáp nhập cơ quan nào sẽ phải đương đầu với nhiều thế lực cản trở, nhất là lợi ích nhóm... 
 
Điều này không chỉ đòi hỏi ở ý chí, quyết tâm chính trị phải rất cao; phải có nhận thức đầy đủ, đúng đắn và quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản và mới trong nghị quyết, mà còn phải hết sức đồng lòng, quyết liệt trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra; trong đó cần chú trọng một số vấn đề sau đây:
 
Thứ nhất, phải có sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong đó Đảng phải tiên phong, đột phá trước tiên vào bộ máy của Đảng để để các bộ, ngành, các địa phương nhìn vào đó mà thực hiện. Và mỗi khi bộ máy được tinh gọn, hoạt động hiệu quả thì sẽ đem lại một sức sống mới cho cả bộ máy của hệ thống chính trị; từ đó giảm bớt gánh nặng cho dân, tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp... 
 
Thứ hai, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực và vào cuộc quyết liệt; phải coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước yêu cầu mới. Việc tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế phải đi đôi với đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin phục vụ lãnh đạo, điều hành.
 
Thứ ba, rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong của các tổ chức theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính, gắn với tái cơ cấu, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện giao và quản lý chặt chẽ biên chế trên cơ sở phân loại tổ chức, xác định rõ vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với đặc điểm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, giảm tỉ lệ người phục vụ, nhất là khối hành chính; kiên quyết ngăn chặn tình trạng tăng biên chế như trước đây. 
 
Thứ tư, xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng đắn trong tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý đi đôi với xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ. 
 
Thứ năm, đề cao tinh thần trách nhiệm, sự gương mẫu của người đứng đầu gắn với tăng cường phối hợp chặt chẽ trong công tác kiểm tra của Đảng, thanh tra của Nhà nước và sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan dân cử. Tập trung ưu tiên triển khai ngay những việc đã rõ, đã chín, có cả cơ sở lý luận và thực tiễn. 
 
Có thể nói, Hội nghị Trung ương lần này đánh dấu một sự đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, những bước đi rất cân nhắc, kỹ càng, tiến hành thận trọng và quyết liệt. Nhân dân kỳ vọng nghị quyết lần này sẽ được thực hiện đạt hiệu quả cao, tạo ra những thay đổi tích cực về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, tạo thêm động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội của đất nước phát triển nhanh, bền vững. 
 
ĐỔI MỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG TẬP (ĐVSNCL) LÀ HẾT SỨC CẦN THIẾT, CẤP BÁCH 
 
Việc sắp xếp lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) là một trong 5 trọng tâm tái cơ cấu nền kinh tế theo Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XII. Do đó, Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) đã thảo luận và ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL.
 
Trong thời gian qua, Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan tới đổi mới cơ chế hoạt động của các ĐVSNCL theo hướng tự chủ, tự định đoạt trong các lĩnh vực tài chính, tổ chức - nhân sự, chuyên môn. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL được coi là văn bản pháp luật khung. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng ban hành các Nghị quyết giao quyền tự chủ cho các đơn vị trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ; Quyết định số 22 về chuyển ĐVSNCL thành công ty cổ phần...
 
Tuy nhiên, hoạt động của ĐVSNCL vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém và không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua, nhất là trong việc tổ chức lại và đổi mới cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt hơn trí tuệ và sự cống hiến của đông đảo đội ngũ trí thức, các chuyên gia, nhà khoa học và lao động kỹ thuật chất lượng cao, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân; đồng thời góp phần giải quyết vấn đề tổ chức, biên chế, cải cách chế độ tiền lương của toàn hệ thống chính trị.
 
Theo một số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2016, cả nước có 57.995 ĐVSNCL, với gần 2,5 triệu người, chưa kể số nhân lực trong Quân đội và Công an. Trong đó, lớn nhất là giáo dục - đào tạo (41.801 đơn vị, chiếm 72,08%; 1.527.049 người, chiếm 62,54%); y tế (6.160 đơn vị, chiếm 10,62%; 402.553 người, chiếm 16,49%). Tính đến hết 2016, có 2.057 đơn vị tự chủ tài chính, bằng 3,54%, 12.968 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, chiếm 22,36%. 42.146 đơn vị do NSNN bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động, chiếm tỷ lệ 72,67%. 
 
Điều đáng quan tâm là số lượng người làm việc trong các ĐVSNCL không giảm mà tăng lên hàng năm, nếu năm 2011 là 1.812.259 người, thì đến năm 2016 là 1.978.086 người, tăng 165.827 người. Trong đó, khối bộ, ngành tăng 9.035 người; địa phương tăng 156.792 người.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu. Việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành chính sách pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực sự nghiệp công (SNC) còn chậm và chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa theo kịp và chưa phù hợp với tình hình. Nhiều cấp uỷ đảng, lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ, thiếu quyết tâm chính trị, thiếu quyết liệt và đồng bộ trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện…
 
Vì vậy, việc đổi mới tổ chức ĐVSNCL nhằm cắt giảm lực lượng lao động gắn với đổi mới cơ cấu thu - chi ngân sách nhà nước, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhân văn sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng XHCN.
 
Trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động của các ĐVSNCL thời gian qua, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã xác định các quan điểm, mục tiêu và định hướng tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL gắn với bảo đảm ổn định chính trị, xã hội nói chung và từng ngành, lĩnh vực cụ thể nói riêng.
 
Mục tiêu tổng quát của công việc hệ trọng này là đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các ĐVSNCL đảm bảo tinh gọn, hiệu quả, có cơ cấu hợp lý; giữ vai trò nòng cốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công (DVSNC); cung ứng DVSNC có chất lượng ngày càng cao; đảm nhận tốt vai trò cung ứng DVSNC cơ bản, thiết yếu, nâng cao khả năng tiếp cận DVSNC cho mọi tầng lớp nhân dân và xã hội.
 
Trên cơ sở quan điểm, mục tiêu được xác định, Nghị quyết đã đề ra 8 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể về đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL thuộc tất cả các lĩnh vực. Trong thời gian tới, cùng với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, việc sắp xếp lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL cũng có tầm quan trọng không kém, phải được ưu tiên chỉ đạo thực hiện.
 
Trước hết, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống các ĐVSNCL nhằm nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận ở các ngành, các cấp, các đơn vị sự nghiệp và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL, xã hội hóa DVSNC. 
 
Thứ hai, phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị, hoạt động sự nghiệp do Nhà nước giao với hoạt động cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Nhà nước bảo đảm cung cấp DVSNC cơ bản, thiết yếu và các ĐVSNCL được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp DVSNC ở các địa bàn vùng, xa, vùng dân tộc thiểu số nhằm nâng cao khả năng tiếp cận DVSNC cho mọi tầng lớp nhân dân; giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp của các ĐVSNCL. 
 
Thứ ba, đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực mà khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường DVSNC; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các ĐVSNCL và ngoài công lập. Trong quá trình đổi mới, sắp xếp, phải bám sát đặc điểm tình hình của từng ngành, lĩnh vực, địa bàn, đẩy mạnh xã hội hoá, nhưng không thương mại hoá DVSNC. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học - công nghệ có đủ điều kiện thành doanh nghiệp, bao gồm cả hình thức công ty cổ phần. 
 
Thứ tư, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính cho các ĐVSNCL. Chú ý rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với từng loại hình DVSNC và từng loại hình ĐVSNCL. Đổi mới, tăng cường chế độ kế toán, hạch toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các ĐVSNCL, về cơ bản tương tự như đối với doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với nhau và với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp. Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chức, viên chức; rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tinh giản biên chế.
 
Thứ năm, đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các ĐVSNCL theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị ĐVSNCL và việc cung ứng DVSNC; giảm mạnh sự can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của ĐVSNCL. Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu ĐVSNCL; kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm, sai phạm.
 
Thứ sáu, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Các cấp uỷ và tổ chức đảng phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo tổ chức và hoạt động của các ĐVSNCL…
 
Việc sắp xếp lại hệ thống ĐVSNCL phải trên cơ sở quy hoạch mạng lưới ĐVSNCL, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn ĐVSNCL để rà soát, sắp xếp lại theo hướng tránh phân tán, dàn trải, chồng chéo. Đồng thời cần quán triệt nguyên tắc thị trường, có sự dẫn dắt của Nhà nước; chống tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại ngân sách nhà nước; phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo của ĐVSNCL; tăng cường khả năng giám sát, tự giám sát, kiểm soát hoạt động của ĐVSNC. Đây là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng, cần thiết và cấp bách cần được ưu tiên chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. 
 
SỨC KHỎE NHÂN DÂN LÀ VẤN ĐỀ ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG 
 
“Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người dân và của toàn xã hội; bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (BVCS&NCSKND) là công tác đặc biệt quan trọng liên quan đến mọi người, mọi nhà và được cả xã hội quan tâm, có ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta”. 
 
Với tầm quan trọng đặc biệt của công tác BVCS&NCSKND, nên từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác này. Ngay sau Lễ Quốc khánh 2/9/1945, trong bộn bề khó khăn, thử thách và điều kiện kháng chiến gian khổ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe (BVCSSK) của nhân dân, bộ đội và đội ngũ cán bộ. Hồ Chí Minh từng nói: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần sức khỏe mới thành công”. Người chỉ rõ: “Mỗi một người dân yếu ớt là cả nước yếu ớt, dân cường thì nước mạnh”. 
 
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo  thực hiện công tác BV&CSSK nhân dân, đó là: Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới; tiếp theo đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 8 chỉ thị, 3 kết luận, 4 thông báo và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc thực hiện; Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến công tác y tế, BVCSSK nhân dân đã tạo cơ sở chính trị, xã hội, pháp luật để phát triển toàn diện, mạnh mẽ công tác này. Nhờ đó, sự nghiệp BVCS&NCSKND của chúng ta có bước trưởng thành vượt bậc về mọi mặt. 
 
Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ thầy thuốc, cán bộ y tế cả nước đã nỗ lực phấn đấu, triển khai thực hiện nhiều chính sách, biện pháp tăng cường BVCS&NCSKND đạt được kết quả quan trọng. Nhận thức của toàn dân về BVCSSK, xây dựng sự nghiệp Y tế có bước chuyển rõ rệt, nhất là trên các mặt: Chế độ dinh dưỡng; việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; hệ thống cung cấp nước sạch; các thiết chế văn hóa, y tế, thể thao; công tác phòng chống ma túy, hạn chế lạm dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích thích; phong trào luyện tập thể dục thể thao… Nhờ đó, thể lực, tầm vóc, trí tuệ của người Việt Nam đã có bước cải thiện và nâng cao. Nước ta được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá là điểm sáng về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ trong lĩnh vực BVCSSK. 
 
Bên cạnh những nỗ lực và thành tích nêu trên, trong những năm qua, công tác BVCS&NCSKND cũng bộc lộ không ít yếu kém, khuyết điểm, Trong đó đáng chú ý là đã để xảy ra một số sự việc, sự cố gây bức xúc xã hội; mới quan tâm và tập trung chữa bệnh, phòng bệnh mà chưa chú ý đúng mức đến các yếu tố: Dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe ban đầu, điều kiện lao động, sinh sống, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, rèn luyện thân thể; chất lượng khám, chữa bệnh chênh lệch lớn giữa các tuyến dẫn đến quá tải ở bệnh viện tuyến trên; năng lực, trình độ và cả y đức của một bộ phận thầy thuốc, nhân viên y tế còn hạn chế; việc quản lý chất lượng, giá cả thuốc và vật tư y tế còn yếu; công tác quản lý nhà nước về y tế, tổ chức hệ thống y tế, cơ chế chính sách về y tế cũng bộc lộ không ít non yếu, bất cập...
 
Trên cơ sở phân tích, đánh giá một cách thẳng thắn, khách quan những thành tích cũng như hạn chế, yếu kém và bài học kinh nghiệm trong công tác BVCS&NCSKND trong thời gian qua, Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 “Về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” đã xác định quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần nắm vững và thực hiện trong giai đoạn mới.
 
Mục tiêu tổng quát được Nghị quyết xác định là nâng cao sức khỏe, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, chất lượng và hội nhập. Phát triển nền y học khoa học, dân tộc, đại chúng. Bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe. Xây dựng đội ngũ “Thầy thuốc như mẹ hiền”, tâm huyết, yêu nghề, có năng lực chuyên môn vững vàng, tiếp cận trình độ quốc tế. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi sản xuất, cung ứng dược phẩm, dịch vụ y tế. Đồng thời đưa ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 và đến năm 2030. 
 
Nghị quyết cũng đề ra 9 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, trong đó cần chú ý những điểm quan trọng sau đây:
 
Trước hết, phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội trong BVCS&NCSKND. Đồng thời phải nhận thức đây là trách nhiệm của mỗi người dân, mỗi gia đình, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; từ đó tích cực, tự giác tham gia công tác này, trong đó ngành Y tế là lực lượng nòng cốt hàng đầu.
 
Thứ hai, các bệnh viện và cơ sở y tế công lập cần phát huy vai trò chủ đạo trong việc tổ chức cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm các dịch vụ cơ bản cho đông đảo nhân dân; đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa trong hoạt động BVCS&NCSKND, khuyến khích cung cấp dịch vụ theo yêu cầu. Nhà nước tập trung ưu tiên đầu tư ngân sách để triển khai toàn diện công tác BVCS&NCSKND, nhất là đối với các đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo...
 
Thứ ba, tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đề cao trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mỗi người dân về BVCS&NCSK; cải thiện điều kiện sống, lối sống và làm việc; bảo vệ môi trường sinh thái và vệ sinh an toàn thực phẩm; thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, sinh hoạt điều độ, lành mạnh; bảo đảm mọi người dân đều được BVCS&NCSK; bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc tham gia và hưởng thụ bảo hiểm y tế và các dịch vụ có liên quan…
 
Thứ tư, xây dựng nền y tế công bằng, nhân văn, hiệu quả, chất lượng và hội nhập; phát triển cân đối, đồng bộ giữa y tế phổ cập và y tế chuyên sâu, giữa dân y và quân y, gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại; thực hiện phòng bệnh hơn chữa bệnh, phải xem y tế dự phòng là then chốt, y tế cơ sở thực sự là nền tảng; khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức; phát triển ngành dược và thiết bị y tế, bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu phòng, chữa bệnh, khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực và khoa học ngành Y; nâng cao năng lực nghiên cứu, triển khai ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật y tế, dược, sinh học...
 
Thứ năm, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách tài chính y tế, sớm thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; Nhà nước, bảo hiểm y tế bảo đảm chi trả cho các dịch vụ ở mức cơ bản; đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển hệ thống y tế; khắc phục tình trạng thương mại hoá dịch vụ khám, chữa bệnh. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và tài chính của các nước, các tổ chức quốc tế… 
 
Thứ sáu, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cần chủ động, tích cực, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn dân tham gia rèn luyện thân thể; cải thiện điều kiện sống, lối sống và làm việc; bảo vệ môi trường sinh thái và vệ sinh an toàn thực phẩm; thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, sinh hoạt điều độ, lành mạnh…
 
Để công tác BVCS&NCSKND phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người dân trong thời kỳ mới, cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp và toàn xã hội cần nhận thức và quán triệt sâu sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6; từ đó tích cực, tự giác thực hiện có kết quả mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, nhằm đảm bảo mỗi người dân đều được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
 
CÔNG TÁC DÂN SỐ LÀ VẤN ĐỀ LỚN VÀ KHÓ, CÓ Ý NGHĨA ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG
 
Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đó là quan điểm của Nghị quyết số 21-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “về công tác dân số trong tình hình mới”. 
 
Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy con người là vốn quý nhất. Trong mọi hình thái kinh tế -xã hội (KT-XH), dân số luôn là lực lượng sản xuất, lại vừa là người tiêu dùng. Do vậy, dân số là động lực, là mục tiêu của phát triển và những biến đổi về quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số chính là các yếu tố quan trọng liên quan đến phát triển.
 
Những năm qua, nước ta có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình (DSKHHGĐ). Chúng ta đã khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số, sớm đạt và duy trì được mức sinh thay thế. Cơ cấu dân số, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực. Nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh cao vào khoảng năm 2020 - 2030 với số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số. Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt: tầm vóc, thể lực từng bước được cải thiện; tuổi thọ trung bình tăng lên 73,4 tuổi. Dịch vụ DSKHHGĐ được mở rộng, chất lượng ngày càng cao… 
 
Tuy nhiên, công tác dân số vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, cũng như phát sinh những vấn đề mới cần kịp thời có định hướng xử lý như: mức sinh giữa các vùng còn có sự chênh lệch đáng kể; tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng; nguy cơ "chưa giàu đã già", bỏ lỡ cơ hội của "thời kỳ dân số vàng"; quản lý dân số, quản lý di cư, nhất là di cư tự do còn nhiều bất cập. Chất lượng dân số, nhất là chiều cao và thể lực chậm được cải thiện; chính sách hạn chế mức sinh kéo dài, rộng khắp cả nước bắt đầu bộc lộ những hệ luỵ cần sớm được khắc phục…
 
Nghị quyết đã chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém, rút ra những bài học kinh nghiệm của công tác dân số ở nước ta và tham khảo kinh nghiệm của thế giới để đề ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và nhiệm vụ, giải pháp phù hợp nhằm nắm bắt thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, làm tốt hơn nữa công tác dân số trong trong tình hình mới. 
 
Theo đó, Trung ương xác định một số mục tiêu công tác dân số đến năm 2030: Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người; tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống, tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt 22%, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt 11%, tỷ số phụ thuộc chung đạt 49%; tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; tuổi thọ bình quân khoảng 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm, 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung; chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm; chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
 
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, cần chú ý những vấn đề sau đây:
 
Thứ nhất, để thực hiện thắng lợi các mục tiêu công tác dân số trong tình hình mới, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân số; thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội về tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển; giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Đưa công tác dân số, đặc biệt là nâng cao chất lượng dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Thực hiện lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước, của từng ngành, từng địa phương. 
 
Thứ hai, đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số; tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo đảm quyền và trách nhiệm trong việc sinh con và nuôi dạy con tốt. Tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp. Chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội. 
 
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân số gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc. Rà soát các quy định về xử lý vi phạm trong công tác dân số; đồng thời đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số, xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc. Kiện toàn hệ thống thanh tra chuyên ngành dân số, tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm vi phạm.
 
Thứ tư, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số toàn diện về quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố dân số. Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội công lập theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá. Đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển, nhất là các vấn đề mới, trọng tâm về cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số và lồng ghép yếu tố dân số vào kế hoạch hóa phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực. Tăng cường hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, phát triển mạng lưới nghiên cứu về dân số và phát triển.
 
Thứ năm, ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho công tác dân số, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, giáo dục đào tạo, văn hóa thể thao... nhằm nâng cao chất lượng dân số, đời sống mọi mặt của nhân dân, nhất là các đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo. Đẩy mạnh xã hội hóa, có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
 
Thứ sáu, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác viên ở thôn, bản, tổ dân phố. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ, tạo thuận lợi cho người dân. 
 
Thứ bảy, chủ động, tích cực hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số. Tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương, song phương về dân số và phát triển. Tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ về tài chính, tri thức, kinh nghiệm và kỹ thuật của các nước, các tổ chức quốc tế. Tập trung nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc về dân số.
 
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy, cách làm về công tác dân số; giải quyết toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả các vấn đề đặt ra; tăng cường phối hợp liên ngành, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và của cả cộng đồng trong công tác dân số. Phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng ngành, từng cơ quan, đoàn thể trong thực hiện các mục tiêu, giải pháp; đặc biệt là trong thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động về công tác dân số, thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường sống lành mạnh, nâng cao sức khỏe và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
 
Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) bàn thảo và ban hành 4 nghị quyết quan trọng vừa cơ bản, vừa cấp bách nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng. Vấn đề hiện nay là cần tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc những điểm mới, cốt lõi trong từng nghị quyết đến các đối tượng và tuyên truyền rộng rãi trong xã hội; đồng thời liên hệ thực tế của từng địa phương, đơn vị và trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu để xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, đề ra biện pháp cụ thể, thiết thực, phân công trách nhiệm rõ ràng để sớm đưa nghị quyết vào cuộc sống.
 
VĂN NHÂN