Hội nghị Trung ương 7 quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước

09:07, 24/07/2018

(LĐ online) - Trong các ngày 19/5, 21/5 và 23/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII. Đây là những nghị quyết quan trọng, liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị; chăm lo đời sống cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và bảo đảm an sinh xã hội nên được cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hết sức quan tâm.

(LĐ online) - Trong các ngày 19/5, 21/5 và 23/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII. Đây là những nghị quyết quan trọng, liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị; chăm lo đời sống cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và bảo đảm an sinh xã hội nên được cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hết sức quan tâm. Báo Điện tử Lâm Đồng xin giới thiệu một số nội dung cơ bản trong các nghị quyết.                                      
 
TẬP TRUNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁC CẤP, NHẤT LÀ CẤP CHIẾN LƯỢC, ĐỦ PHẨM CHẤT, NĂNG LỰC VÀ UY TÍN, NGANG TẦM NHIỆM VỤ
 
Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới, thay thế Chiến lược cũ ra đời cách đây 20 năm (Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước).
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Do đó, từ trước đến nay, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng; đã có nhiều quyết sách đúng đắn về cán bộ và công tác cán bộ; kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ vẫn còn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém; đội ngũ đông nhưng chưa mạnh, năng lực chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém. Đặc biệt, một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm… Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: "Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ là một trong những điểm yếu, cản trở sự phát triển". 
 
Tình hình trong nước và thế giới hiện nay đã có nhiều thay đổi so với 20 năm trước; cuộc cách mạng công nghệ 4.0, hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện…đang đặt ra yêu cầu phải có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, uy tín và năng lực, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết TW 3, khóa VIII và những đề xuất, kiến nghị của 128 cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương, Hội nghị TW 7 đã tập trung thảo luận và thống nhất ban hành Nghị quyết “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”. 
 
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết TW 3 khoá VIII về Chiến lược cán bộ, Nghị quyết TW7 hóa XII khẳng định: “Đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. “Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”.
 
Từ thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, những nguyên nhân chủ quan, khách quan đã được nhận diện, cũng như sự phân tích, đánh giá tình hình thế giới và trong nước thời gian tới, Nghị quyết TW 7 khoá XII đã đề ra các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
 
Trên cơ sở kế thừa, bổ sung và phát triển các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ, Nghị quyết TW 7 nêu lên 5 quan điểm chỉ đạo; trong đó nhấn mạnh: (1) Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. (2) Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. (3) Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. (4) Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hoà, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc. (5) Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt... 
 
Các quan điểm đề ra trong Nghị quyết lần này có nhiều điểm mới, có tính đồng bộ, toàn diện nhằm tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ với mục tiêu tổng quát: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Trên cơ sở đó, đề ra những mục tiêu cho từng giai đoạn, đến năm 2020, 2025, 2030 và cho từng đối tượng cụ thể (cán bộ cấp chiến lược, cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở Trung ương, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an, đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia, cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước, cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp). 
 
Để đảm bảo thực hiện thành công các quan điểm và mục tiêu đề ra, Nghị quyết đã xác định 7 nhóm giải pháp đồng bộ, bao gồm: Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ; Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền; Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ; Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ và một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. 
 
Trong 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp Nghị quyết TW 7 đề ra, có rất nhiều nội dung đổi mới quan trọng, có tính đột phá, đơn cử một số điểm sau đây: 
 
Trước hết, thể chế hoá, cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung… 
 
Thứ hai, đề cao giải pháp kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, họ hàng trong công tác cán bộ. Theo đó, Trung ương yêu cầu: (i) Xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực, siết chặt kỷ luật, kỷ cương và chống tệ chạy chức, chạy quyền, thân quen, cánh hẩu, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ. (ii) Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho tệ chạy chức, chạy quyền. (iii) Kiên quyết huỷ bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm, có hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ, không có "vùng cấm"; mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý... Đây được xem là những giải pháp có tính đột phá nhằm đấu tranh ngăn chặn triệt để sự tha hoá quyền lực trong bộ máy công quyền, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
 
Thứ ba, xây dựng chiến lược quốc gia về nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam hay người nước ngoài. Nghị quyết đưa ra cơ chế phát hiện quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ trẻ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp. Đồng thời, hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc "có lên, có xuống", "có vào, có ra" là chuyện bình thường. Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp uỷ viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình… 
 
Thứ tư, phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác, xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc đánh giá để bổ nhiệm và bầu cử phải trực tiếp khảo sát, gặp gỡ, trao đổi đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan và tiếp nhận ý kiến phản ánh, đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân để nắm rõ cán bộ; có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện qua thực tiễn có nhiều khó khăn, thách thức lớn của đội ngũ cán bộ. 
 
Thứ năm, việc bầu cử, bổ nhiệm cán bộ được thực hiện theo hướng mở rộng dân chủ, có số dư, cạnh tranh lành mạnh ở tất cả các chức danh, bầu cử kết hợp với thi tuyển; để thu hút tối đa tiềm năng, trí tuệ của đội ngũ cán bộ các cấp, cần tiếp tục mở rộng thực hiện chủ trương thí điểm thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, để đảm bảo việc lựa chọn cán bộ khách quan và đúng người, quy định về thẩm định, giám sát bầu cử, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ cũng sẽ được xây dựng. Thực hiện nhất quán việc bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch UBND.
 
Thứ sáu, để ngăn chặn triệt để tình trạng chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ, cần xác định hành vi chạy chức, chạy quyền được coi là tham nhũng. Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và danh dự của cán bộ để hình thành văn hoá không chạy chức, chạy quyền… 
 
Những vấn đề Nghị quyết TW 7 khoá XII đặt có ý nghĩa quyết định và trách nhiệm nặng nề đang được đặt ra. Nếu Nghị quyết được thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, kỳ vọng sẽ tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới.

CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG MỘT BỘ PHẬN RẤT QUAN TRỌNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI, TÁC ĐỘNG ĐẾN NHIỀU ĐỐI TƯỢNG
 
Chính sách tiền lương là một bộ phận rất quan trọng, có tác động đến hàng triệu công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động; góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Ngày 21/5/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành nghị quyết quan trọng này (Nghị quyết số 27-NQ/TW).
 
Nước ta đã trải qua 4 lần cải cách chính sách tiền lương, vào các năm 1960, 1985, 1993 và năm 2003. Nhờ đó, tiền lương trong khu vực công đã từng bước được cải thiện, nhất là ở những vùng và lĩnh vực đặc biệt khó khăn, góp phần nâng cao đời sống của người hưởng lương; tiền lương trong khu vực doanh nghiệp từng bước được hoàn thiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 
 
Tuy nhiên, chính sách tiền lương đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính bình quân, cào bằng, chưa tạo được động lực để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả làm việc của người lao động. Tiền lương cơ bản của khu vực công thấp hơn khu vực doanh nghiệp, chưa bảo đảm nhu cầu thiết yếu của đời sống và chưa phải là nguồn thu nhập chính của nhiều người hưởng lương. Tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp chưa phản ánh đúng quan hệ phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường, chưa tạo được động lực nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh.
 
Nguyên nhân dẫn đến những bất cập, hạn chế của chính sách tiền lương thời gian qua ngoài yếu tố khách quan là do nội lực nền kinh tế còn yếu, tích luỹ còn ít, nguồn lực nhà nước còn hạn chế...thì chủ yếu là nguyên nhân chủ quan do việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương còn chậm, chính sách tiền lương chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; tổ chức bộ máy còn cồng kềnh; chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao, dẫn đến số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước còn quá lớn… Hơn nữa, quá trình cải cách tiền lương không gắn với cải cách công vụ, mà chủ yếu để bù trượt giá, làm mất đi ý nghĩa của cải cách tiền lương; không thực hiện triệt để việc đưa các chi phí vào lương, lương vừa không xác đáng, vừa bình quân, cào bằng. Tiền lương của khu vực hành chính, sự nghiệp thấp hơn nhiều các khu vực kinh tế khác, làm mất đi sự thu hút đối với nguồn nhân lực chất lượng cao… 
 
Từ đó, Nghị quyết Hội nghị TW 7 đã xác định rõ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn; những chính sách, biện pháp, nhất là những chính sách, biện pháp có tính đột phá, khả thi cao để sớm khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay, bảo đảm cho cải cách tiền lương lần này thực sự tạo được sự đột phá trong chế độ phân phối, tạo động lực cho người lao động, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 
Quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết TW 7 nhấn mạnh: Chính sách tiền lương là một chính sách đặc biệt quan trọng, phải bảo đảm đời sống và tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động; khắc phục có hiệu quả những hạn chế, bất cập của chính sách tiền lương hiện hành, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng lương; Nhà nước trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, bảo đảm tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; tiền lương khu vực doanh nghiệp là giá cả sức lao động, hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; cải cách chính sách tiền lương đòi hỏi quyết tâm chính trị cao trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; thúc đẩy cải cách hành chính; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh giản biên chế... 
 
Mục tiêu xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia lần này phải đảm bảo “một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ; tạo động lực giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; góp phần xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; bảo đảm đời sống của người hưởng lương và gia đình người hưởng lương, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”.
 
Trên cơ sở đó, mục tiêu cụ thể đặt ra từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030 là: Năm 2021, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân của khu vực doanh nghiệp; đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân của khu vực doanh nghiệp và đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp. Đối với khu vực doanh nghiệp, từ năm 2021, Nhà nước định kỳ điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng Tiền lương quốc gia; thực hiện chính sách tiền lương trên cơ sở thương lượng, thoả thuận giữa người sử dụng lao động với người lao động và đại diện tập thể người lao động; Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào chính sách tiền lương của doanh nghiệp; thực hiện phương thức khoán chi phí tiền lương gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến năm 2025 và tiến tới giao khoán nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vào năm 2030.
 
Để cụ thể hóa những quan điểm, mục tiêu đưa ra, Nghị quyết TW lần này đã đề ra nhiều nội dung, nhiệm vụ, giải pháp cải cách tiền lương đồng bộ, có tính đột phá, đó là: Cải cách tiền lương tập trung vào các nội dung chủ yếu như thiết kế cơ cấu tiền lương mới gồm lương cơ bản (khoảng 70% tổng quỹ lương) và các khoản phụ cấp (khoảng 30% tổng quỹ lương); thực hiện trả lương phải theo cấp bậc, vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo thay thế hệ thống bảng lương hiện hành, chuyển xếp lương cũ sang lương mới, bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng; sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành, bảo đảm tổng quỹ phụ cấp chiếm tối đa 30% tổng quỹ lương; bãi bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay, xây dựng mức lương cơ bản bằng số tiền cụ thể trong bảng lương mới. Theo đó, đề cao trách nhiệm trả lương của người đứng đầu, người sử dụng lao động gắn với năng lực, khả năng của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Qua đó, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức sẽ được cải thiện rõ rệt, tạo ra một mặt bằng mới là tất cả cán bộ, công chức, viên chức đều được tăng lương.
 
Điểm nổi bật là: (i) Xây dựng một bảng lương chức vụ, áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cấp xã; một bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ chức danh lãnh đạo, đảm bảo tiền lương tương quan với bảng lương của người giữ chức vụ lãnh đạo và thậm chí có một phần khuyến khích những người làm chuyên môn nghiệp vụ có thể phát triển mà không nhất thiết phải đi theo con đường lãnh đạo. (ii) Xây dựng 3 bảng lương mới đối với lực lượng vũ trang, gồm một bảng lương sĩ quan quân đội, sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ công an (theo chức vụ, chức danh và cấp bậc quân hàm/cấp hàm), một bảng lương quân nhân chuyên nghiệp, chuyên môn kỹ thuật công an và một bảng lương công nhân quốc phòng, công nhân công an (trong đó giữ tương quan tiền lương của lực lượng vũ trang so với công chức hành chính như hiện nay). (iii) Có sự sắp xếp lại giữa các ngành nghề và bảo đảm tính ưu tiên, khuyến khích các ngành nghề có chính sách ưu đãi của nhà nước. Những bất cập hiện nay như quá nhiều phụ cấp, quy định lương bằng hệ số… sẽ được khắc phục. (iv) Tăng mức lương đối với cán bộ, công chức do nhà nước quy định, giảm các khoản thu mang tính không chính thống, không thường xuyên để cơ quan đơn vị tập trung vào làm nhiệm vụ. Cho phép các tỉnh, thành ở các vùng động lực nếu tự bảo đảm cân đối ngân sách, tự bảo đảm nguồn cải cách tiền lương có thể chi lương cao hơn để khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao hiệu quả làm việc và để tăng lương cho cán bộ, công chức...
 
Một số nhiệm vụ, giải pháp cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ:
 
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cải cách chính sách tiền lương; tích cực xây dựng vị trí việc làm đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội trong thực hiện chính sách cải cách tiền lương.
 
Thứ hai, mức lương công chức phải đảm bảo mức sống, có mối quan hệ tương xứng, không thấp hơn với khu vực doanh nghiệp, thị trường; cân nhắc mức độ công bằng với tiền lương khu vực tư cũng như cân bằng giữa công chức, viên chức ở các hạng ngạch khác nhau; có hệ thống lương chung và dùng phụ cấp để ưu đãi đối tượng đặc thù. Khoảng cách giữa các bậc lương phải đủ rộng để công chức có động lực phấn đấu, khắc phục việc chức vụ cao hơn nhưng lương thấp hơn, thứ bậc không đúng, không tạo ra động lực. Đồng thời có chú ý đến tính phức tạp của nhiệm vụ và mức độ trách nhiệm, mức giá và chi phí sinh hoạt của người dân nói chung để đảm bảo tiền lương có thể đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu.
 
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện hệ thống vị trí việc làm là giải pháp căn bản mang tính tiền đề để thực hiện cải cách tiền lương; rà soát bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về vị trí việc làm và các tiêu chí đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức gắn với từng vị trí việc làm trong khu vực công; xác định khung năng lực theo từng vị trí việc làm và tinh giản biên chế… để thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang và làm căn cứ tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả lương theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo.
 
Thứ tư, cải cách chính sách tiền lương gắn với lộ trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế; đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị quyết TW 6 khóa XII, đảm bảo tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; nếu không thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thì cải cách chính sách tiền lương rất khó khăn vì nó liên quan đến nguồn lực của Nhà nước. Quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách tạo nguồn lực cho cải cách chính sách tiền lương, coi đây là nhiệm vụ đột phá, tiên quyết; bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án; hội thảo...
 
Những cải cách mang tính cách mạng về chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp gắn liền với tinh giản biên chế, sắp xếp tinh gọn bộ máy khu vực công được kỳ vọng sẽ tạo ra bước ngoặt trong lao động, sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, chất lượng và bền vững, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội.
 
BẢO HIỂM XÃ HỘI LÀ LĨNH VỰC RỘNG LỚN, PHỨC TẠP, NHẠY CẢM PHẢN ÁNH TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN, THỰC HIỆN TIẾN BỘ, CÔNG BẰNG  XÃ HỘI 
 
Ở nước ta, Bảo hiểm xã hội (BHXH) chỉ mới áp dụng đối với khu vực công từ năm 1961, chủ yếu là chế độ hưu trí, tử tuất. Từ khi đất nước đổi mới, BHXH cũng bắt đầu đổi mới, phát triển ngày càng đầy đủ, phù hợp hơn với kinh tế thị trường định hướng XHCN và thông lệ quốc tế. Để phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, ngày 23/5/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH.
 
Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia, bao gồm bảo hiểm hưu trí - tử tuất; bảo hiểm thất nghiệp; bảo hiểm ốm đau, thai sản và bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, với vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển. Trong xu hướng già hóa dân số diễn ra nhanh như hiện nay, việc cải cách chính sách BHXH ở nước ta là cần thiết và cấp bách, nếu không thực hiện kịp thời sẽ có tác động rất khó lường trong tương lai.
 
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hệ thống pháp luật, chính sách BHXH đã từng bước được hoàn thiện, ngày càng đồng bộ, phù hợp với thực tế đất nước và thông lệ quốc tế. Từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Quỹ BHXH đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ giữa những người lao động cùng thế hệ và giữa các thế hệ tham gia BHXH. Hệ thống tổ chức BHXH từng bước được đổi mới, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, phát huy được vai trò, tính hiệu quả trong xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách và quản lý Quỹ BHXH. 
 
Tuy nhiên, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách BHXH vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội, về cơ bản còn thiết kế đơn tầng, sự kết nối giữa chính sách BHXH với các chính sách xã hội khác chưa đồng bộ, chặt chẽ; việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHXH còn dưới mức tiềm năng, độ bao phủ BHXH tăng chậm, còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng tham gia (năm 2017 mới chỉ đạt gần 29% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, vẫn còn trên 70% chưa tham gia), quy mô tham gia BHXH còn thấp, số người hưởng BHXH một lần tăng nhanh; chính sách bảo hiểm thất nghiệp chưa thực sự gắn với thị trường lao động, mới tập trung nhiều cho khu vực chính thức, chưa có chính sách phù hợp cho khu vực phi chính thức nơi người lao động dễ bị tổn thương…
 
Nguyên nhân hạn chế yếu kém có nhiều nhưng chủ yếu là do: sự lãnh đạo, chỉ đạo thiếu quyết liệt; năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước hiệu quả thấp; nhận thức của các đối tượng về vai trò, mục đích, ý nghĩa của BHXH chưa đầy đủ; việc xử lý vi phạm trong thực hiện chính sách BHXH thiếu kiên quyết và còn bất cập, chưa có chế tài xử phạt đủ mạnh; công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH chưa thật sự tạo được sự tin cậy để thu hút người lao động tham gia BHXH.
 
Do đó, quan điểm về chính sách BHXH trong Nghị quyết lần này được xác định rõ: (i) BHXH là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững đất nước. (ii) Phát triển hệ thống chính sách BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, hướng tới bao phủ toàn dân. (iii) Cải cách chính sách BHXH vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, phải đặt trong mối tương quan với đổi mới, phát triển các chính sách xã hội khác. (vi) Phát triển hệ thống tổ chức thực hiện tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, nâng cao tính hấp dẫn. (v) Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
 
Mục tiêu tổng quát là: Cải cách chính sách BHXH để BHXH thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân. Phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển hệ thống thực hiện chính sách BHXH tinh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại, tin cậy và minh bạch.
 
Mục tiêu cụ thể theo 3 giai đoạn: Giai đoạn đến năm 2021: Phấn đấu có khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH; khoảng 28% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; phấn đấu có khoảng 45% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp xã hội (lương hưu xã hội). Giai đoạn đến năm 2025: Phấn đấu có khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH; khoảng 35% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp xã hội; phấn đấu chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt 85%. Giai đoạn đến năm 2030: Phấn đấu đạt khoảng 60% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHXH, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện chiếm khoảng 5% lực lượng lao động trong độ tuổi; khoảng 45% lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp; khoảng 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội; chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia BHXH đạt mức 90%. Qua từng giai đoạn, tăng dần tỷ lệ nông dân và lao động khu vực phi chính thức tham gia BHXH tự nguyện từ 1% lên 2,5% và 5% lực lượng lao động trong độ tuổi.
 
Nghị quyết đã đề ra 11 nội dung và 5 nhiệm vụ, giải pháp, trong đó cần chú ý một số vấn đề mới, có tính đột phá nhằm thu hút, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm và bảo đảm việc cân đối thu chi bền vững của quỹ bảo hiểm, đó là:
 
Thứ nhất, phải thu hút, mở rộng BHXH vững chắc, theo hướng tăng BHXH bắt buộc về đối tượng và quy mô, gia tăng số lao động tham gia BHXH trong khu vực phi chính thức, tiến tới thực hiện BHXH toàn dân (hiện nay mới có 13,9 triệu/ 53 triệu lao động tham gia bảo hiểm, trong đó 200 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện là con số quá nhỏ); việc mở rộng đối tượng BHXH phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế tư nhân và cần tập trung cao phát triển BHXH trong lực lượng này (còn khoảng 15,6 triệu số hộ kinh doanh cá thể); ban hành chính sách nâng cao tính hấp dẫn của BHXH, đồng thời Nhà nước có chủ trương hỗ trợ cho người khó khăn có thể tham gia BHXH phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội (chủ trương hỗ trợ hiện nay chưa thực sự hấp dẫn: 30% cho hộ nghèo, 25% hộ cận nghèo và người bình thường 10%). Theo đó, phải xây dựng hệ thống BHXH đa tầng (Trợ cấp hưu trí xã hội, BHXH cơ bản, bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện, Bảo hiểm hưu trí bổ sung là chế độ hưu trí tự nguyện); điều chỉnh tỉ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm xã hội theo hướng hài hoà quyền lợi giữa người sử dụng lao động và người lao động…
 
Thứ hai, giảm dần số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng chế độ hưu trí từ 20 năm xuống 15 năm, hướng tới còn 10 năm với mức hưởng được tính toán phù hợp; bảo đảm công bằng giữa nam và nữ, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước; kết hợp hài hoà các nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ để thu hẹp khoảng cách thu nhập trong các đối tượng hưu trí; rà soát, mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, hướng tới chính sách BHXH bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi có đủ điều kiện cần thiết…Cần tách bạch BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc, nếu nhập vào nhau sau này có thể sẽ mất cân đối và ngân sách nhà nước lại phải chi trả. 
 
Thứ ba, tăng cường sự liên kết, hỗ trợ giữa các chính sách BHXH cũng như tính linh hoạt của các chính sách nhằm đạt được mục tiêu mở rộng diện bao phủ. Theo đó, sửa đổi, hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng không chỉ chú trọng xử lý hậu quả (chi trả trợ cấp thất nghiệp, đào tạo công việc mới, giới thiệu việc làm) mà còn chú ý phòng ngừa, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, bảo đảm việc làm cho người lao động; thiết kế các gói BHXH tự nguyện ngắn hạn linh hoạt để người lao động có nhiều sự lựa chọn tham gia và thụ hưởng; mở rộng các chế độ BHXH tự nguyện, tạo điều kiện chuyển đổi thuận lợi giữa BHXH tự nguyện và BHXH bắt buộc. 
 
Thứ tư, xây dựng chính sách BHXH bảo đảm sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhóm đối tượng tham gia nhằm củng cố niềm tin, tăng mức độ hài lòng của người tham gia vào hệ thống BHXH; khắc phục các bất hợp lý về chế độ bảo hiểm hưu trí hiện nay, điều chỉnh tích lũy để đạt mức lương hưu tối đa phù hợp với thông lệ quốc tế, giảm tỷ lệ và số lượng người hưởng BHXH một lần, có lộ trình điều chỉnh kéo dài thời gian tham gia BHXH thực tế, tăng tỉ lệ giảm trừ tiền lương hưu đối với người lao động muốn nhận chế độ hưu trí sớm; xây dựng lộ trình điều chỉnh lương hưu độc lập với tiền lương của người đương chức, quan tâm điều chỉnh thoả đáng đối với nhóm đối tượng có mức lương hưu thấp và nghỉ hưu trước năm 1995. Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu theo lộ trình, có tính đến đặc thù nghề nghiệp, để bảo đảm không có sự thay đổi quá nhanh, đột ngột và dẫn đến nhiều hệ lụy... 
 
Thứ năm, tăng cường sự phối hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách BHXH, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh; thực hiện đồng bộ các biện pháp hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia BHXH, đi đôi với chú trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi BHXH. Tăng mức phạt để hạn chế tình trạng chây ì, trốn đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH; bởi hiện nay tình trạng trốn, nợ đọng BHXH đang diễn ra ở hầu hết các tỉnh, thành phố và nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (tính đến giữa năm 2017 đã là 14.019 tỷ đồng). Theo đó, cơ quan thuế có thể sẽ thực hiện đồng thời việc thu thuế và thu các khoản bảo hiểm bắt buộc của các đơn vị sử dụng lao động, góp phần chấm dứt được tình trạng 2 sổ lương như hiện nay (lương tối thiểu và tiền lương thu nhập). 
 
Thứ sáu, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHXH; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BHXH; nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chính sách, pháp luật về BHXH…
 
Nghị quyết về cải cách chính sách BHXH thể hiện tính nhân văn, bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN ở nước ta; có nhiều vấn đề hệ trọng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Để Nghị quyết được hiện thực hóa trong đời sống theo đúng lộ trình, ngoài đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao, còn cần phải thực hiện đồng bộ các nội dung, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra và sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. 
 
VĂN NHÂN