(LĐ online) - Trong những năm miền Bắc bước đầu cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH), một số cán bộ có biểu hiện coi nhẹ đạo đức cách mạng, có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, muốn được nghỉ ngơi, hưởng thụ, sợ gian khổ, không ham học tập, thiếu cảnh giác, buông lỏng kỷ luật, thích phô trương hình thức, quan liêu, tham ô, lãng phí, hủ hóa, kèn cựa địa vị, không tin vào quần chúng...
(LĐ online) - Trong những năm miền Bắc bước đầu cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội (CNXH), một số cán bộ có biểu hiện coi nhẹ đạo đức cách mạng, có tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, muốn được nghỉ ngơi, hưởng thụ, sợ gian khổ, không ham học tập, thiếu cảnh giác, buông lỏng kỷ luật, thích phô trương hình thức, quan liêu, tham ô, lãng phí, hủ hóa, kèn cựa địa vị, không tin vào quần chúng... Trước tình hình đó, tháng 12-1958, Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Ðạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập (Tạp chí Cộng sản) số 12, với bút danh Trần Lực.
Kỳ 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM “XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG”
Tác phẩm “Ðạo đức cách mạng” là một trong những bài viết tập trung đầy đủ nhất những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về đạo đức cách mạng. Tác phẩm đã đề cập đến 3 vấn đề rất quan trọng, đó là:
Vấn đề thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khái quát về lịch sử đấu tranh sinh tồn của xã hội loài người là “phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập thể, của xã hội.Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự nhiên, không sống còn được”. Người nhấn mạnh: “Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội;… Do đó, chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt”. Đó là điều hiển nhiên “không ai ngǎn cản được”. Tuy nhiên, khi xã hội xuất hiện giai cấp và mâu thuẩn giai cấp gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp giữa những người bị bóc lột và những kẻ bóc lột, giữa “bọn phong kiến địa chủ, bọn tư bản và đế quốc” và “những tầng lớp người khác, nhất là công nhân và nông dân” ngày càng quyết liệt. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc đấu tranh đó, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, vì đó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất. Từ đó, Người cũng chỉ rõ “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa.Người cách mạng phải có đạo đức cách mạnglàm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Vấn đề thứ hai, Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm Đạo đức cách mạng (ĐĐCM). Trước hết, Người khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng” và nó “là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”. Vì vậy, theo Người “chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi”, để gột rửa cái cũ, xóa bỏ chủ nghĩa cá nhân, xây dựng ĐĐCM. Và mỗi khi đã có ĐĐCM thì: “khi gặp khó khǎn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…”; “… khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”.
Nội dung của ĐĐCM được Người tóm tắt là: “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”.
Trên cơ sở đó, Người đi sâu phân tích về các biểu hiện cụ thể của ĐĐCM, đó là: Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân; ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác; ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nông dân lao động, tuyệt đối không thể lừng chừng; vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống lại kẻ địch gồm ba loại: Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc, thói quen và truyền thống lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân; phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết; thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ; thực hiện “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; hoà mình với quần chúng, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng; kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng …
Khi nóivề ĐĐCM, Người cũng phê phán quyết liệt những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân dẫn đến tình trạng một số cán bộ, đảng viên trở nên kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại; phê bình người khác mà không muốn người khác phê bình mình; không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật thà, nghiêm chỉnh; yêu cầu được hưởng thụ, nghỉ ngơi; muốn lựa chọn công tác theo ý thích, muốn địa vị cao nhưng lại sợ trách nhiệm nặng; sút kém tinh thần đấu tranh và tính tích cực, sút kém chí khí anh dũng và phẩm chất tốt đẹp của người cách mạng; còn “kể công” với Đảng và muốn Đảng “cảm ơn” họ; từ đó đòi ưu đãi, đòi địa vị, thậm chí có người còn oán trách Đảng, dần dần xa rời Đảng, phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng...
Vấn đề thứ ba, Hồ Chí Minh chỉ rõ miền Bắc tiến dần lên CNXH là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam và là yêu cầu cấp bách của hàng chục triệu người lao động, nhưng muốn thành công thì phải chống được chủ nghĩa cá nhân. Tuy nhiên theo Bác, chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”, mà vẫn tôn trọng và bảo vệ lợi ích cá nhân, miễn là lợi ích đó không trái với lợi ích của tập thể và “khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì ĐĐCM đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”. Từ đó, Người khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa”.
Từ quan điểm “Cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi. Cho nên người cách mạng cũng phải tiến lên mãi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng và rèn luyện ĐĐCM, đặc biệt phải “cố gắng học tập lý luận Mác – Lênin”, mới đáp ứng được công việc cách mạng “nghìn điều muôn loại phức tạp, khó khăn” và giải quyết đúng các vấn đề cách mạng đặt ra. Người cũng chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, … Học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm.Lý luận đi đôi với thực tiễn”.Đồng thời, Người phê bình cách “học sách vở Mác - Lênin, nhưng không học tinh thần Mác - Lênin. Học để trang sức, chứ không phải để vận dụng vào công việc cách mạng” và cho “Đó cũng là chủ nghĩa cá nhân”; mà theo Bác “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trǎm thứ bệnh nguy hiểm… là một kẻ địch hung ác của CNXH. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”.
Kết luận tác phẩm, Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ cực kỳ vẻ vang của cách mạng nước ta là “xây dựng miền Bắc tiến dần lên CNXH, làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc thống nhất nước nhà”.Từ đó, yêu cầu toàn thể cán bộ trong và ngoài Đảng phải kiên trì, bền bỉ “trau dồi đạo đức cách mạng”; bởi “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Và Người khẳng định: “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng CNXH và giải phóng loài người”.
Nội dung, tư tưởng của tác phẩm “Đạo đức cách mạng” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay.
KỲ 2: GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Thấm nhuần vai trò, vị trí của đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã bổ sung thêm thành tố “đạo đức” trong công tác xây dựng Đảng: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Điều này cho thấy vấn đề đạo đức là rất quan trọng và cần thiết, một trong những mục tiêu chủ yếu của công tác xây dựng Đảng, nhất là trong tình hình hiện nay.
Thực tế công cuộc đổi mới đất nước ta đã cho thấy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bên cạnh mặt tích cực là đề cao tinh thần trách nhiệm và phát huy tính năng động, tích cực và sáng tạo của con người; tôn vinh những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như là tình thân ái, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với cộng đồng, Tổ quốc và nhân dân…, thì mặt trái của nó là đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng đạo đức, lối sống của người dân Việt Nam, trong đó có đội ngũ cán bộ, đảng viên; làm thay đổi hệ thống thang giá trị chuẩn mực xã hội từ chỗ coi trọng đạo lý, đề cao nghĩa tình, đến chỗ đề cao các giá trị vật chất, sùng bái đồng tiền; chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng có điều kiện phát triển... Điều đó đặt ra thách thức lớn đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị nói chung và cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng nói riêng. Từ đó, đòi hỏi chúng ta phải thấm nhuần và vận dụng những luận điểm có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn của tác phẩm “Đạo đức cách mạng” để giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ, cán bộ, đảng viên hiện nay, trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm như sau.
Thứ nhất, thấm nhuần tư tưởng “Phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên”. Theo đó, cần thường xuyên học tập, quán triệt lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức trong việc quán triệt sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức cách mạng; thấu suốt tư tưởng “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”; tự mình rèn luyện về phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ, phương pháp và tác phong công tác; không bị tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường....
Thứ hai, tự giác thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI và khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Quy định số 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, các quy định của Ban Bí thư khóa XI và Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về việc nêu gương của CB, ĐV, gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” . Qua đó, góp phần đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ CB, ĐV với 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống; 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ … Từ đó, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Thứ ba, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng gắn với nâng cao tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng viên; bởi “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do đó, tùy vị trí công tác và trách nhiệm được giao, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao trách nhiệm gương mẫu, đi đầu trên các mặt tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong, tự phê bình và phê bình, trong quan hệ với nhân dân, trách nhiệm trong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật và đoàn kết nội bộ…; tận tụy, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; chống các các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân như: lợi ích nhóm, chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, chạy chính sách, chạy thi đua khen thưởng, tư tưởng cục bộ, bè phái và các biểu hiện tiêu cực khác.
Thứ tư, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức đảng, qua đó giúp cán bộ, đảng viên nhận ra sai lầm, khuyết điểm để khắc phục, sửa chữa theo tinh thần “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình”. Khắc phục tình trạng buông lỏng kỷ luật, kỷ cương, tư tưởng nể nang, cục bộ, bản vị; kiên quyết thay thế, đưa ra khỏi Đảng những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém… như Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, XII yêu cầu.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” với tinh thần tự giác và đi vào chiều sâu. Theo đó,phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, biện pháp; trước hết, cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng và phát huy tính tích cực tự giác phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng đạo đức sát thực tế, thiết thực, hiệu quả; đặc biệt coi trọng giáo dục mục tiêu, lý tưởng cách mạng, lối sống XHCN, nhất là đối với lớp trẻ; làm tốt việc nêu gương người tốt việc tốt, tôn vinh người có công với cách mạng, có thành tích trong lao động, sản xuất, v.v...để tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng.
60 năm đã trôi qua, nhưng nội dung, tư tưởng của tác phẩm “Đạo đức cách mạng” vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là trong bối cảnh Đảng ta đang thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ", gắn với Chỉ thị 05- CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Vì vậy, tác phẩm “Đạo đức cách mạng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục là “cẩm nang” để mỗi cán bộ, đảng viên tự xem xét, đánh giá, tự soi lại mình trong việc tu dưỡng, rèn luyện và phấn đấu xây dựng ĐĐCM, chống lại chủ nghĩa cá nhân, bài trừ đặc quyền, đặc lợi; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí…Đồng thời, những nội dung, những vấn đề có tính nguyên tắc được nêu lên trong tác phẩm là đường hướng, nguyên tắc để tiếp tục xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.
NGUYỄN VĂN HƯƠNG