(LĐ online) - Sáng ngày 01/11, thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIV, Quốc hội tiếp tục thảo luận ở hội trường về Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn...
(LĐ online) - Sáng ngày 01/11, thực hiện Chương trình Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIV, Quốc hội tiếp tục thảo luận ở hội trường về Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn. Xung quanh Đề án này, Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Lâm Đồng K’Nhiễu đã phát biểu trao đổi thêm một số vấn đề.
|
Quang cảnh phiên họp |
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới, chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật phong phú đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn nước cung cấp cho khu vực đồng bằng.
Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đời sống của đồng bào các dân tộc đã được nâng lên rõ rệt, nhưng hiện nay vẫn là nơi khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người dân tộc thiểu số; xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng, Nhà nước.
Phát biểu trước Quốc hội, Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Lâm Đồng K’Nhiễu bày tỏ tán thành với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra Hội đồng Dân tộc của Quốc hội về Đề án tổng thể phát triển KT - XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN), vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn. Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng K’Nhiễu cho rằng, cần thiết phải xây dựng, trình Quốc hội phê duyệt Đề án này để có giải pháp tổng thể, khắc phục những tồn tại, hạn chế của giai đoạn vừa qua, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển toàn diện vùng DTTS&MN, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của đồng bào DTTS so với cả nước.
Theo Đại biểu Quốc hội K’Nhiễu, việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng cao, diện mạo vùng DTTS&MN đã thay đổi rõ rệt. Tại tỉnh Lâm Đồng, qua 07 năm triển khai thực hiện các chương trình, chính sách giảm nghèo đã đạt nhiều kết quả quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững quốc phòng - an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tăng cường và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, nhân dân các dân tộc giữ vững niềm tin với Đảng, Nhà nước. Đến cuối năm 2018, toàn tỉnh còn khoảng 9 nghìn hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 2,85%, trong đó hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số còn 6.000 hộ, chiếm tỷ lệ 8,50%. Bình quân mỗi năm tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3,54%. Điều quan trọng là đa số hộ nghèo, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số đã có chuyển biến về mặt nhận thức, thay đổi hành vi để vươn lên tự thoát nghèo.
|
Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Lâm Đồng K’Nhiễu phát biểu thảo luận ở hội trường |
Việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng cao, diện mạo vùng đã thay đổi rõ rệt. Nhưng hiện nay, trong vùng còn có 1.957 xã và 20.176 thôn đặc biệt khó khăn, đây là khu vực vẫn còn tồn tại "5 nhất" so với cả nước, đó là: Vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nhất; chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất; kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất; tỷ lệ người nghèo cao nhất. Khoảng cách phát triển, mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số so với mặt bằng chung cả nước chưa được thu hẹp mà có xu hướng ngày càng giãn ra.
Về nguyên nhân thì có nhiều, ngoài nguyên nhân là do hạn chế phân bổ nguồn lực thì ở một số địa phương, nhất là Tây Nguyên còn có vấn đề dân di cư tự phát tại một số địa bàn làm vỡ quy hoạch, kế hoạch sắp xếp dân cư, sử dụng đất, phát triển kinh tế - xã hội, nảy sinh nhiều khó khăn trong quản lý hành chính, dân cư, ổn định đời sống, phát triển sản xuất, bảo vệ phát triển rừng của các địa phương, tạo áp lực lớn trong công tác giảm nghèo; đời sống của người dân tộc thiểu số di cư tự do gặp nhiều khó khăn, những hộ dân di cư tự do ở những nơi chưa được sắp xếp quy hoạch, quản lý thì gần như không tiếp cận với các dịch vụ xã hội, các chính sách giảm nghèo bền vững do chưa được công nhận địa vị pháp lý, hộ tịch, hộ khẩu…
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, việc xây dựng Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021 - 2030, xác định mục tiêu cụ thể, giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển toàn diện vùng này, thu hẹp dần khoảng cách với các vùng phát triển là yêu cầu bức thiết và khách quan.
Cũng theo đại biểu K’Nhiễu, trong thời gian qua, việc bố trí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia và các chính sách khác đều có chủ trương ưu tiên cho vùng đồng bào DTTS&MN, nhưng thực tế không đạt được như mong muốn. Trong khi đó, hỗ trợ từ nguồn vốn ODA, vốn đóng góp của doanh nghiệp và vốn đối ứng của các địa phương còn hạn chế, nhất là đối với địa bàn chưa tự cân đối được ngân sách.
Bên cạnh đó, việc lồng ghép nguồn lực của một số chính sách không khả thi, như chính sách thay thế hỗ trợ đất sản xuất bằng đào tạo nghề giải quyết việc làm và hỗ trợ nước sinh hoạt bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia.
Tổng hợp nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào DTTS&MN gặp nhiều khó khăn, kinh phí thực hiện theo từng chương trình mục tiêu, chính sách của các bộ, ngành phần lớn không tổng hợp riêng cho vùng DTTS&MN, không tách riêng nguồn vốn đầu tư, vốn sự nghiệp, vốn vay, vốn ODA...
Mặt khác, công tác phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan chưa thống nhất trong việc cân đối, bố trí vốn để thực hiện chính sách dân tộc.
Do đó, đề nghị Quốc hội cụ thể nội dung về kinh phí bố trí thực hiện Đề án này thành một mục trong kế hoạch phân bổ kinh phí, nguồn vốn trung hạn để căn cứ trên cơ sở đó, Chính phủ thực hiện phân bổ.
Ngoài ra, về mục tiêu cụ thể đến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm từ 3% đến 5%, Quốc hội cần cân nhắc với tỷ lệ này. Bởi vì đối với những địa phương có tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào DTTS&MN không cao (đơn cử như tại Lâm Đồng trong giai đoạn 2016 - 2018 vừa qua bình quân mỗi năm tỉ lệ hộ nghèo giảm 1,27%, tỉ lệ hộ nghèo DTTS giảm 3,54%), số hộ nghèo còn lại thường có hoàn cảnh, điều kiện khó khăn, trong gia đình số người có khả năng lao động không cao thì việc thực hiện giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 3% đến 5% là khó đảm bảo tính khả thi. Vì vậy, Đề án nên có mục tiêu và giải pháp cho việc chống tái nghèo, góp phần giảm nghèo bền vững đối với các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào DTTS&MN không cao.
Box: Theo phân định hiện hành, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn bao gồm 1.957 xã thuộc vùng DTTS&MN, hơn 300 xã bãi ngang ven biển và hải đảo không thuộc vùng DTTS&MN. Do đó, cần điều chỉnh tên gọi của Đề án là “Đề án tổng thể phát triển KT - XH vùng DTTS&MN”, để xác định rõ địa bàn, đối tượng của đề án là vùng đồng bào DTTS&MN; không bao gồm hơn 300 xã bãi ngang ven biển, hải đảo.
TỨ KIÊN (tổng hợp)