(LĐ online) - Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta như một huyền thoại. Người Việt Nam tự hào, thế giới ngợi ca!
(LĐ online) - Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta như một huyền thoại. Người Việt Nam tự hào, thế giới ngợi ca!
Đáng tiếc, mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách “khép lại quá khứ hướng tới tương lai” nhưng suốt 46 năm qua, một số người một thời từ phía bên kia chiến tuyến vẫn hão huyền về sự hồi sinh một chế độ đã lụi tàn. Chúng ngụy sử, tiêm nhiễm vào thế hệ trẻ những lời nói dối lừa rằng ‘Việt Nam cộng hòa” là quốc gia độc lập, có chính phủ, có quân lực, có tài chánh, có biên giới lãnh thổ, có ngoại giao; 30/4/1975 không phải là “giải phóng” mà là “xâm lược” từ phía Bắc Việt.
Nhận diện tính pháp lý về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
Ngày 25/8/1945, Vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, chính thức trao Bửu kiếm và Ngọc tỷ - biểu tượng “quyền uy trị nước” của Nhà Nguyễn cho Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chiếu thoái vị có đoạn: “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập. Trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta.
Việt Nam độc lập muôn năm!
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm! (trích nguyên văn)
Tiếp nhận sự chuyển giao đó, ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chính thức tuyên bố với toàn thế giới: “…chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”
Như vậy, Chiếu thoái vị và bản Tuyên ngôn độc lập 2/9 là văn bản pháp lý khẳng định toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đất nước và độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, không lệ thuộc bất cứ một quốc gia nào. Từ đó khẳng định: Cái gọi là “Chính phủ quốc gia Việt Nam” do Pháp dựng lên sau ngày 2/9/1945 là chính phủ bất hợp pháp, là “ngụy chính phủ”.
Sau khi thất bại tại chiến trường Điện Biên Phủ, Pháp và các nước tham gia hội nghị Genève – Thụy Điển (từ ngày 8/5/1954 đến 21/7/1954) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương đã thừa nhận và cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại cả hai miền bắc và nam vĩ tuyến 17. Điều đó cũng trực tiếp khẳng định: Việt Nam không có bất cứ một chính phủ nào khác ngoài Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Những chứng cứ lịch sử đầy đủ tính pháp lý đó đã vạch rõ rằng việc Mỹ đưa quân vào Việt Nam thay chân Pháp (sau năm 1954) là cuộc chiến tranh xâm lược; cái gọi là “Chính phủ Việt Nam cộng hòa” mà Mỹ dựng lên là hòng che đậy bản chất của cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ mà thôi.
Một bằng chứng nữa là ngay tại Điều 1 của Hiệp định Pari (1973) Mỹ đã thừa nhận: “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như được công nhận bởi hiệp định Genève”. Nghĩa là Mỹ công nhận Việt Nam là một quốc gia thống nhất, miền nam không phải là quốc gia riêng biệt.
Không ai thừa nhận cái chính thể Việt Nam cộng hoà
Nhà báo Hoàng Nguyên kể rằng: Từ ngày 27 đến 29/12/1970, tại giảng đường chùa Linh Sơn Đà Lạt diễn ra sự kiện “Đại hội sinh viên Phật tử Miền Nam Việt Nam” với sự tham gia của tất cả các viện đại học miền nam lúc bấy giờ, gồm: Đại học Sài Gòn, đại học Vạn Hạnh, đại học Cần Thơ, đại học Huế và đại học Đà Lạt. Các hoạt động của đại hội diễn ra trên diện rộng, từ giảng đường Linh Sơn đến viện đại học, tỏa ra các đường phố, tác động đến các trường trung học. Nơi đâu cũng vang lên những bài ca tranh đấu của hàng ngàn sinh viên, học sinh. Đêm đêm, diễn ra các chương trình văn nghệ của lực lượng sinh viên ca ngợi truyền thống yêu nước, ca ngợi kháng chiến cứu nước, lên án Mỹ và chính quyền Gài Gòn đem bom đạn gieo rắc đau thương, tang tóc trên khắp quê hương nước Việt.
Nhà cầm quyền Đà Lạt lúc bấy giờ yêu cầu thay đổi nội dung pandrol: “ĐẠI HỘI SINH VIÊN PHẬT TỬ MIỀN NAM VIỆT NAM” bằng câu: “ĐẠI HỘI SINH VIÊN PHẬT TỬ VIỆT NAM” với lý sự rằng “các bạn là những sinh viên sống và học tập dưới chính thể Việt Nam cộng hòa, là một quốc gia độc lập hẳn hoi”. Nhưng sinh viên phản bác: “Bất cứ người Việt Nam yêu nước nào cũng biết rằng đây chỉ là Miền Nam Việt Nam, một nửa đất nước Việt Nam yêu quý của chúng ta mà thôi”. Ngầm ý muốn nói là chúng tôi không thừa nhận cái chính thể Việt Nam cộng hoà.
Đại hội này đã ra tuyên ngôn gồm 9 điểm khá mạnh mẽ, trong đó có mấy điểm đáng chú ý:
“Sự hiện diện của Mỹ và đồng minh của họ tại Miền Nam Việt Nam là sự nối tiếp con đường xâm lăng của Pháp tại bán đảo Đông Dương trước đây” (điểm 3 của tuyên ngôn) .
“Những nhà cầm quyền kế tiếp tại Miền Nam Việt Nam không thực sự đại diện Nhân dân Miền Nam Việt Nam mà chỉ dựa vào thế lực ngoại bang để tồn tại” (điểm 4).
“Toàn quân đội ngoại quốc phải rút tức khắc, vô điều kiện ra khỏi Miền Nam Việt Nam... để Nhân dân Miền Nam Việt Nam giải quyết chiến cuộc trên tinh thần dân tộc, tự quyết” (điểm 6).
“Kêu gọi các đoàn thể chánh trị, đồng bào, sinh viên học sinh trong và ngoài nước hành động tích cực nhằm chấm dứt chiến tranh để đem lại hòa bình, thống nhất, độc lập cho Việt Nam” (điểm 9) ...v...v...
Có thể nói nguyện vọng độc lập thống nhất xuyên suốt trong tâm tư nguyện vọng của giới trẻ và Nhân dân Miền Nam Việt Nam trong những năm đất nước bị chia cắt, tất cả được thể hiện qua các phong trào đấu tranh của Nhân dân miền nam từ nông thôn đến thành thị, từ giới trí thức đến công nhân, nông dân, tiểu thương, từ Phật giáo đến công giáo...Hàng ngàn người lên bưng biền tham gia mặt trận giải phóng, chỉ có giới tài phiệt và nhà cầm quyền vì lợi ích mà cấu kết với ngoại bang, chống lại nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
Cuối cùng việc Mỹ phải rút quân về nước (1973) và chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng ngày 30 tháng 4 năm 1975 được coi là một tất yếu lịch sử, bắt nguồn từ khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của Nhân dân hai miền Nam - Bắc.
Lời kết
Khẳng định rằng, vĩ tuyến 17 chưa bao giờ và không bao giờ là “biên giới lãnh thổ”, đó chỉ là ranh giới tập kết quân sự tạm thời để chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất 2 miền (việc chấp nhận lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời là một sự nhượng bộ của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với Pháp vì đáng lý ra khi thực dân Pháp thừa nhận toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì thực dân Pháp phải rút quân về nước; phải giải giáp đội quân đánh thuê; giải tán chính quyền bù nhìn do Pháp dựng lên) vì vậy, dù thực dân Pháp có đặt ra hàng ngàn cái tên “Chính phủ Quốc gia Việt Nam” hay đế quốc Mỹ có xây dựng hàng vạn “Đệ nhất, đệ nhị Việt Nam Cộng hòa” thì chính quyền đó chỉ là “ngụy quyền”, quân lực của chính quyền đó cũng chỉ là “ngụy quân”; không biên giới, không lãnh thổ và ngoại giao cũng chỉ là cơ quan ngụy tạo. Đã không biên giới, không lãnh thổ thì làm gì có cái gọi là quốc gia; không có quốc gia thì làm sao gọi là Bắc Việt xâm lược Nam Việt. Vì vậy, nếu ai cho rằng 30/4 không phải “ngày giải phóng mà là ngày xâm lược” thì người đó không hiểu biết gì về lịch sử, hoặc hiểu biết lịch sử nhưng họ cố tình làm méo mó lịch sử, đánh tráo bản chất của cuộc chiến, biến cái chính nghĩa thành cái phi nghĩa và ngược lại cái phi nghĩa thành cái chính nghĩa, rồi bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử, loan truyền “đầu độc” vào thế hệ trẻ những thông tin sai sự thật, gieo rắc hận thù, kích động để thế hệ trẻ nối gót những sai lầm, chống phá sự bình yên của đất nước, sự an lành của Nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, phá hoại quá trình hòa hợp dân tộc mà toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang dày công xây dựng.
VĂN TÒA