Quán triệt quan điểm ''Lấy dân làm gốc'' của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội

10:11, 05/11/2021

(LĐ online) - Quan điểm "Lấy dân làm gốc" là một trong những bài học quan trọng, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, xuyên suốt chiều dài lịch sử...

(LĐ online) - Quan điểm "Lấy dân làm gốc” là một trong những bài học quan trọng, góp phần làm nên những thành tựu to lớn, xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhằm phát huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và vận dụng thành công quan điểm này. Từ khi được thành lập cho đến nay, Đảng luôn xác định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
 
“Dân là gốc” trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ việc kế thừa và phát huy những bài học từ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nhìn lại lịch sử từ thời phong kiến, triều đại nào biết thực thi chính sách an dân, lấy “Dân làm gốc” thì quy tụ được lòng dân, đất nước hưng thịnh, dân được hưởng thái bình, ngược lại, đất nước rơi vào loạn lạc, bị các thế lực ngoại bang xâm lăng, giày xéo. Thực tiễn lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã chứng tỏ sự nghiệp vẻ vang của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... cũng chính là thành quả của quần chúng Nhân dân. Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến, vai trò của quần chúng chưa được phát huy hết sức mạnh. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn khẳng định: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”, Nguyễn Trãi đã khái quát triết lý: “Việc nhân nghĩa, cốt yên dân”, “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Vì vậy, quan điểm “Lấy dân làm gốc” đã trở thành bài học kinh nghiệm, một giá trị văn hóa chính trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam.
 
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”. Có Đảng mở đường, lãnh đạo thì cách mạng mới thành công. Nhưng chính Nhân dân và chỉ có Nhân dân mới là người hiện thực hóa được mục tiêu, lý tưởng mà Đảng đề ra. Không có Nhân dân sẽ không có lực lượng cách mạng và phong trào cách mạng. Nhận thức sâu sắc chân lý ấy, Đảng ta đã dày công tuyên truyền, giác ngộ, vận động quần chúng Nhân dân ủng hộ cách mạng, tham gia cách mạng; qua đó, phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc làm nên những chiến công vĩ đại, làm rạng danh non sông, đất nước ta. Đó là chiến thắng của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Và sau đó, cũng tinh thần ấy, khí phách ấy, Nhân dân ta lại “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, thu giang sơn về một mối. Bao chiến thắng vang dội đó là chiến thắng của nhân nghĩa, của khát vọng hòa bình và cũng chính là chiến thắng của lòng dân, sức dân.
 
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định “lấy dân làm gốc” là cơ sở cho việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Quan điểm này tiếp tục được phát huy và nâng lên tầm cao mới trong các văn kiện qua các kỳ đại hội. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đánh dấu sự đổi mới quan trọng của Ðảng trong lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội chỉ ra những khó khăn về tình hình kinh tế - xã hội của đất nước: Sản xuất tăng chậm, mất cân đối lớn trong nền kinh tế; đời sống Nhân dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng... Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên đây là những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, trong Đại hội VI của Đảng đã tổng kết bài học quan trọng hàng đầu: “Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao động”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI cũng nhấn mạnh, Đảng cần đổi mới phong cách làm việc, tác phong đi sâu, đi sát thực tế, nắm bắt thông tin nhanh chóng và chính xác; mở rộng sinh hoạt dân chủ; nghiên cứu những kinh nghiệm sáng tạo của cơ sở; lắng nghe ý kiến của quần chúng... để có những chính sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn.
 
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, trong Báo cáo chính trị Đại hội VII Đảng ta đã chỉ ra một số thành tựu đạt được đó là: Tình hình chính trị của đất nước ổn định; nền kinh tế có những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ rõ rệt; nền dân chủ của Nhân dân ngày càng được phát huy… Đại hội cũng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; trong đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân". Vì vậy, “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế”.
 
Tại Đại hội lần thứ VIII, lần đầu tiên Đảng đề ra cơ chế cụ thể thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra” đối với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong thực tế đối với các đại biểu và cơ quan nhà nước mà dân lập nên. Đại hội chỉ rõ: “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn, cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân trên cơ sở phát huy dân chủ. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp phát của mọi người. Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân”.
 
Đến Đại hội X của Đảng, đã rút ra một số bài học kinh nghiệm; trong đó, Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là chìa khoá của thành công”. 
 
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây chính là hai thành tố quan trọng có ý nghĩa quyết định để thực hiện thành công những nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. Từ thực tiễn phong phú của cách mạng, Đại hội XI nhấn mạnh mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng. Nhằm phát huy dân chủ, vai trò của quần chúng Nhân dân, Đại hội XI đã đề ra phương hướng: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có cơ chế cụ thể để Nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
 
Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Điều đặc biệt là lần đầu tiên trong Hiến pháp, tại Điều 4, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam, điểm 2 viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Như vậy, không chỉ Nhà nước mà ngay cả Đảng còn phải gắn bó với Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước Nhân dân.
 
Đến Đại hội Đảng lần thứ XII, Đảng đã chỉ ra một trong những thành tựu quan trọng đã đạt được đó là: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy”. Tuy nhiên, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm… Vì vậy, Đại hội đã chỉ ra một trong năm bài học quan trọng là: “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”. 
 
Gắn bó với Nhân dân, dựa vào Nhân dân xây dựng Đảng là nguồn gốc, sức mạnh, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tiếp tục được thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật. Sự ra đời của Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; Quy định về việc đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với cấp ủy, tổ chức đảng và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú; Quy định về việc mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền… đã tăng thêm cơ chế, điều kiện để Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
 
Ngoài ra, kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng đang có tác dụng ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ và tạo đồng thuận trong xã hội, khôi phục niềm tin của Nhân dân với Đảng. Qua đó chứng minh rằng, Nhân dân là người làm nên những thành tựu của công cuộc đổi mới. Đổi mới phải dựa vào Nhân dân, tin tưởng vào tài dân, sức dân, nguồn lực lớn nhất, quan trọng nhất, quyết định nhất là lòng dân và ở nơi dân là tư tưởng xuyên suốt được Đảng ta quán triệt qua các kỳ đại hội. 
 
Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn tình trạng làm giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Đảng đã chỉ ra: “Vấn đề phai nhạt lý tưởng, sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, quan liêu, tham nhũng, cá nhân chủ nghĩa làm xói mòn lòng tin của Nhân dân đối với Đảng”; “Có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Vì vậy, trong toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, giải quyết những bức xúc, mâu thuẫn tồn tại trong Nhân dân.
 
Quan điểm “lấy dân làm gốc” được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII. Trên cơ sở đánh giá khái quát những thành tựu nổi bật và những hạn chế trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Tổng Bí thư đã đúc rút 5 bài học kinh nghiệm. Một trong những bài học quan trọng hàng đầu đó là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “Dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân. Lấy phục vụ Nhân dân làm động lực và mục tiêu phấn đấu, luôn tin tưởng tôn trọng và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, kế thừa và phát huy giá trị bài học “lấy dân làm gốc” ở các kỳ Đại hội trước. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định lấy dân làm gốc là kim chỉ nam quan trọng để Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát huy và phát triển sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đất nước kiên định, vững vàng và tự tin vượt qua những khó khăn, thách thức trong bối cảnh mới.
 
Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi hỏi mỗi chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
 
Một là, phát huy dân chủ trong Đảng, trong Nhân dân nhằm phát huy trí tuệ của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Để có dân chủ rộng rãi trong Đảng, điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ. Mọi đảng viên được quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định mọi công việc của Đảng - từ những công việc cụ thể của tổ chức đảng cơ sở đến những vấn đề lớn như xây dựng đường lối. Đảng viên có quyền tranh luận, nêu ý kiến của riêng mình và có quyền bảo lưu ý kiến lên cấp lãnh đạo cao nhất. Nhưng khi đã thành nghị quyết của tập thể thì mọi đảng viên phải tôn trọng, nói và làm theo nghị quyết. Bên cạnh đó, mọi cấp ủy đảng phải thực sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới và đảng viên, biết tổng hợp trí tuệ và sáng kiến, kinh nghiệm công tác phong phú của đảng viên. Để thực hành dân chủ trong Đảng đòi hỏi mỗi đảng viên phải thực hiện nghiêm Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy. Trong nhiều nội dung về nêu gương phải coi trọng nêu gương về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
 
Hai là, quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” cần đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào hoạt động chủ đạo thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII Đảng không chỉ nhấn mạnh phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mà còn nhấn mạnh yếu tố “dân thụ hưởng”. Bởi cái đích cuối cùng và cũng là thước đo hiệu quả của mọi chủ trương quyết sách của Đảng đó còn là những thành quả mà Nhân dân được thụ hưởng. Đây không chỉ là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn mà còn là bước tiến mới trong phát triển tư duy về Nhân dân. Thực tế đó là quy luật khách quan, dân làm thì dân phải được thụ hưởng, còn nếu làm mà không thụ hưởng thì không ai muốn làm, hay lợi ích chính là động lực. Lợi ích cá nhân luôn kích thích con người lao động, sáng tạo, tuy nhiên nó chỉ trở thành động lực cho phát triển khi lợi ích cá nhân vận động cùng chiều với lợi ích quốc gia - dân tộc. 
 
Bảo đảm cho sự vận động cùng chiều giữa lợi ích cá nhân với lợi ích quốc gia - dân tộc chính là các quy phạm pháp luật và quy phạm đạo đức cốt lõi của văn hóa. Người dân cần phải được thụ hưởng (lợi ích vật chất và tinh thần) những gì họ đóng góp, xây dựng nên. Điều này cũng nhất quán và phù hợp với quan điểm của Đảng ta đề ra ngay trong những năm đầu thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước. 
 
Dân thụ hưởng chính là thể hiện mục đích cuối cùng của Đảng đó là phục vụ nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Việc bổ sung điểm mới này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm khích lệ tinh thần tích cực của Nhân dân, phát huy vai trò, vị trí của người dân trong khát vọng xây dựng đất nước thịnh vượng, hùng cường của dân tộc. 
 
Ba là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh nhằm củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, đối với con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
 
Đảng phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Phải quyết liệt chống tiêu cực thì nhân tố tích cực mới có thể nảy nở như hoa mùa xuân, giống như muốn lúa tốt, phải nhổ sạch cỏ. Vì thế, biểu hiện rõ nhất, tập trung nhất của tư tưởng “lấy dân làm gốc” hiện nay chính là nói “không” với tham nhũng và đẩy mạnh công tác phòng chống tham nhũng, triệt tiêu “lợi ích nhóm”. Mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm “tiếp nhiệt” cho “lò” chống tham nhũng đang rực cháy. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII quán triệt tiếp tục xây dựng Đảng về đạo đức: “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị”. 
 
Cần kết hợp với thực hiện nghiêm Quy định số 08 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về trách nhiệm nêu gương, yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, chống độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của Nhân dân. 
 
Để đẩy lùi bệnh quan liêu, xa dân, thì không chỉ sâu sát, hiểu dân, tin dân mà cán bộ, đảng viên còn phải có lối sống trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của dân, là chỗ dựa, là niềm tin yêu của Nhân dân. Cán bộ đảng viên phải nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng. Đảng viên giữ chức vụ càng cao thì phải càng gương mẫu để khẳng định vị trí lãnh đạo, tiên phong, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đảng cũng chủ trương cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, Đại hội XIII đã có bước cụ thể hóa, hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” bằng việc phát huy vai trò giám sát, đánh giá của nhân dân trong xây dựng Đảng, nhà nước. 
 
Các tổ chức trong hệ thống chính trị cần phát huy dân chủ rộng rãi, thực hiện tốt nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” gắn với tăng cường kỷ cương, pháp luật. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích của Nhân dân. Để chủ trương này đi vào thực tiễn cuộc sống thì lợi ích của Nhân dân phải là trước hết và trên hết trong chu trình hoạch định và triển khai chính sách. Nhân dân được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển. Đảng phải dựa vào Nhân dân để xây dựng và củng cố Đảng, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ. Bài học “lấy dân làm gốc” tiếp tục là kim chỉ nam cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lập nên những kỳ tích phát triển mới, vì một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
 
Để quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, yêu cầu đặt ra là mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức phải phục vụ lợi ích của Nhân dân; giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Tiếp tục kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa rời Nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng… Như lời căn dặn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng Nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì Nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm”. Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, tôn trọng Nhân dân, phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân.
 
Thiếu tá NGUYỄN QUỐC DUY
Khoa MLN, TTHCM/Học viện Lục quân