Trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục phát triển và đổi mới hiện nay, “dân là gốc” tiếp tục là kim chỉ nam trong tư tưởng, phương châm hành động của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
|
Đội tiêm vaccine lưu động đến từng ngõ, vào từng nhà có người già yếu, khó khăn trong việc di chuyển để tiêm đúng, sớm nhất |
Từ bao đời nay, “dân là gốc” luôn là kim chỉ nam xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Sức mạnh lòng dân đã đưa đất nước ta băng qua những gập ghềnh, gian nan suốt hàng nghìn năm lịch sử.
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được Đảng, Nhà nước ta thấu triệt, vận dụng, là cơ sở tạo nên cội nguồn sức mạnh đoàn kết, mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Đảng ra đời là vì lợi ích của nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng là nhằm “lấy tài dân, sức dân để làm những công việc có lợi cho dân,” chứ không phải vì lợi ích của người lãnh đạo.
Trong bối cảnh đất nước đang tiếp tục phát triển và đổi mới hiện nay, “dân là gốc” tiếp tục là kim chỉ nam trong tư tưởng, phương châm hành động của Đảng, Nhà nước ta.
“Dân là gốc,” tức dân là nền tảng cho mọi thành tựu của một quốc gia, dân tộc. Lịch sử của đất nước cho thấy, từ thời phong kiến, triều đại nào biết thực thi chính sách an dân, lấy dân làm gốc ắt quy tụ được lòng dân, đất nước hưng thịnh, thái bình.
Đi ngược lại với điều này, đất nước rơi vào loạn lạc, bị các thế lực ngoại bang xâm lăng bờ cõi…
Sức mạnh từ nội lực nhân dân
Bộ luật Hình thư đầu tiên của nước ta dưới triều nhà Lý công bố năm 1042 đã xác định: “Chăm lo đến đời sống người dân trăm họ, chỉnh đốn pháp luật sao cho giảm bớt nỗi khổ của dân, xóa bớt bất công trong thiên hạ.”
Sự ra đời của Bộ luật Hình thư đầu tiên đã ghi nhận những thay đổi trong nhận thức của triều Lý so với các triều đại trước đó về tầm quan trọng của lòng dân đối với vận mệnh của một quốc gia.
Những quyết sách quan trọng của triều Lý về chính trị, kinh tế, giáo dục, luật pháp cũng rất chú trọng chăm lo đến cuộc sống người dân. Nền tảng vững chắc ấy đã giúp triều Lý phát triển hưng thịnh trong hơn 200 năm.
Kế thừa những di sản triều Lý, triều đại nhà Trần trong hoàn cảnh đất nước bị giặc xâm lăng, bài học “lấy dân làm gốc” đã được vua tôi nhà Trần thấm nhuần, thể hiện qua Hội nghị Diên Hồng năm 1284, tập hợp được sức mạnh, thống nhất được ý chí của quân dân, nhờ đó đã ba lần đánh tan giặc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Một câu chuyện minh chứng cho chân lý “lấy dân làm gốc” là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từng dốc lòng tâu vua Trần Anh Tông về kế sách giữ nước: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.”
Lịch sử đã minh chứng, có dân là có tất cả, không biết dựa vào dân sẽ phải chịu thất bại.
Nhà Hồ lâm vào cảnh nước mất, nhà tan, thất bại trước giặc Minh hung tàn cũng bởi không thấu triệt chân lý này.
Đến thời Hậu Lê, tư tưởng “lấy dân làm gốc” được phát huy, sau 9 năm trường kỳ kháng chiến, quân dân nhà Lê đã đánh bại giặc Minh, khôi phục xã tắc.
Nguyễn Trãi, khi thay mặt Lê Lợi viết "Bình Ngô đại cáo" đã nêu rõ: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân."
Bản Tuyên ngôn độc lập của triều Lê đã khẳng định tư tưởng vì dân và an dân.
Nhà chính trị, quân sự kiệt xuất Nguyễn Trãi cũng khẳng định: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân,” thể hiện quan điểm quốc gia muốn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu, bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
Không chỉ là tư tưởng xuyên suốt qua các triều đại phong kiến, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ đất nước của dân tộc thế kỷ XX, sức mạnh của quần chúng đã được minh chứng ngay từ những năm 1930-1940 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh của công nhân, nông dân Nghệ An và Hà Tĩnh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hàng triệu người dân đang sống trong cảnh lầm than nô lệ đã được khích lệ, gắn kết với nhau để nhất tề đứng lên.
Tinh thần ấy đã làm nên thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân - phong kiến trên đất nước ta, dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử có đoạn: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.”
Đây chính là khát vọng cháy bỏng, là mục tiêu sống của mỗi con người. Bài học nằm lòng “lấy dân làm gốc” của cha ông đến thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục là ngọn đuốc soi đường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn đặc biệt coi trọng sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân,” “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân,” “Dân là gốc của một nước, nước lấy dân làm gốc,” “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.”
Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, quyết giữ vững nền độc lập dân tộc, đưa kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Ở cuộc kháng chiến đó, có những dân công hỏa tuyến, những bà mẹ Việt Nam ngày đêm đào hầm nuôi giấu cán bộ, những nắm gạo sẻ chia của từng gia đình được gom lại, giúp bộ đội ta có thêm sức mạnh, niềm tin để vững bước vào trận đánh lớn.
Đó chính là minh chứng rõ nét nhất cho ý chí và sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, cũng là một trong những nhân tố quyết định để làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.”
Sức mạnh từ nội lực nhân dân một lần nữa làm nên đỉnh cao Đại thắng mùa Xuân năm 1975, non sông thu về một mối.
Có thể thấy tôn trọng, phát huy quyền làm chủ, chăm lo đời sống nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong sự lãnh đạo của Đảng.
Có dân là có tất cả đã trở thành phương pháp luận, phương châm hoạt động cách mạng của Người: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”...
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn lấy nhân dân là trung tâm, là chủ thể.
Tại Đại hội VI của Đảng, một trong bốn bài học lớn được Đảng rút ra trong toàn bộ hoạt động của mình là Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc,” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Bài học này tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong các kỳ Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng.
Đánh giá quá trình đổi mới, Đại hội IX của Đảng một lần nữa khẳng định đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.
Đến Đại hội Đảng lần thứ XII, một trong năm bài học mà Đại hội đúc kết là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “Dân là gốc,” thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng,” nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Tại Đại hội XIII, tư tưởng dân là gốc đã được đúc kết thành bài học riêng, với những nguyên tắc cơ bản, đồng thời tiếp tục được phát triển bổ sung. Theo đó, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cùng với thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, văn kiện Đại hội nhấn mạnh việc dân giám sát và dân thụ hưởng.
Đặc biệt, tại Hiến pháp năm 2013 - văn bản chính trị, pháp lý cao nhất của đất nước - cụm từ “nhân dân” được viết hoa một cách trang trọng, điều mà các bản Hiến pháp trước đó chưa thể hiện đã cho thấy sự tôn vinh của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân - chủ thể của đất nước, đồng thời khẳng định bản chất Nhà nước do dân, vì dân và tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Theo nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý - người trực tiếp tham gia vào quá trình sửa đổi Hiến pháp, từ khi nghiên cứu chủ trương sửa đổi đến khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, hai chữ nhân dân được viết hoa, khẳng định mạnh mẽ quan điểm “lấy dân làm gốc.”
Nhân dân là chủ thể của Hiến pháp, chủ thể của quyền lực Nhà nước. Tầm vóc của Hiến pháp, sức sống của Hiến pháp cũng chính từ hai chữ “Nhân dân” đó.
Thông điệp mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta muốn khẳng định đến toàn thể nhân dân và bạn bè quốc tế rằng, ở Việt Nam, mọi chủ trương, chính sách đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đất nước ta vì thế mà đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.” Thành quả này thuộc về nhân dân.
Qua đại dịch COVID-19, điều này càng được khẳng định mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Quan điểm “vì dân” được thể hiện xuyên suốt trong chiến lược của Đảng, Nhà nước về phòng, chống đại dịch COVID-19.
Với một đất nước đang nỗ lực vươn lên, rất nhiều khó khăn phía trước, nhưng trong mọi đường lối của Đảng, sự điều hành của Nhà nước đều trước sau như một, chấp nhận thiệt hại về kinh tế nhưng bằng mọi giá, phải bảo vệ tính mạng nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Khó có thể kể hết ra đây những chỉ đạo, những quyết sách kịp thời trong hơn hai năm qua để hỗ trợ người dân vượt qua đại dịch, hay phục hồi kinh tế đất nước.
Tuy là một nước còn nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam là 1 trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vaccine phòng COVID-19 cao nhất thế giới.
Khẳng định "dân là gốc" tiếp tục là tư tưởng, phương châm hành động của Đảng, Nhà nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây đã nêu rõ, cán bộ, đảng viên phải tôn trọng nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, học hỏi nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh, trật tự, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
“Phải kiên quyết loại bỏ thái độ bàng quan, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân; kiên quyết loại bỏ mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền lực để xâm phạm lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,” Tổng Bí thư nhấn mạnh.
(Theo Vietnam+)
Thông tin bạn đọc
Đóng Lưu thông tin