Tính đến nay, có ít nhất 9 tuyến đường bộ từ vùng duyên hải (Quảng Ngãi - Bình Thuận) đã vươn lên Tây Nguyên. Trong đó, đường Nha Trang – Đà Lạt buộc phải xây dựng sau cùng. Vì sao?
Thi công đường đèo 723. |
Một thời, người Pháp có ý tưởng xây dựng Đà Lạt thành trung tâm lớn của Đông Dương. Họ khẩn trương xây dựng tuyến đường sắt tháp Chàm – Đà Lạt và hai tuyến đường bộ Dầu Dây – Đà Lạt và Phan Rang – Đà Lạt (nay là QL20 và QL 27). Nhưng tuyến đường Nha Trang – Đà Lạt thì không? Vì sao?
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đường Nha Trang – Đà Lạt đã được bàn đến trong cuộc họp tại Buôn Ma Thuột (khoảng 1978) do ông Trần Kiên chủ trì. Ông Trần Kiên lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy Đăk Lăk, được Trung ương giao nhiệm vụ, đã họp với đoàn đại biểu đến từ 4 tỉnh Lâm Đồng, Phú Khánh (cũ), Đăk Lăk và thuận Hải (cũ). Nội dung trọng tâm của cuộc họp là phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh quốc phòng và khai thác tiềm năng kinh tế vùng đất giáp ranh 4 tỉnh. Một trong những biện pháp hàng đầu mà các đại biểu thảo luận nhiều nhất là 4 tỉnh cùng phối hợp làm đường ô tô đến vùng đất giáp ranh nói trên, trong đó hai tỉnh Lâm Đồng và Phúc Khánh (cũ) mở ngay tuyến đường nối liền hai huyện Đơn Dương (Lâm Đồng) và Khánh Vĩnh (Phú Khánh cũ), làm tiền đề để mở tuyến đường Nha Trang – Đà Lạt.
Đoàn đại biểu của Phú khánh (cũ) do ông Quách Tiến Hấp, Tỉnh đội trưởng làm trưởng đoàn và ông Võ Hòa, Trưởng Ty GTVT làm phó đoàn, đã chủ động tham gia nhiều ý kiến hết sức thực tiễn. Người viết bài này được vinh dự là thành viên duy nhất của GTVT Phú Khánh (cũ) được ông Võ Hòa chỉ định, cũng dự họp tại Buôn ma Thuột năm ấy.
Vậy mà phải gần 30 năm sau cuộc họp ấy, tuyến đường Nha Trang – Đà Lạt mới trở thành hiện thực, làm nức lòng biết bao nhiêu người, làm ngỡ ngàng hoặc tự hào của biết bao vị trong giới chuyên môn.
Đường đèo 723 hiện nay. |
Gần đây, khi khẩn trương chuẩn bị cho tuyến đường này, giới chuyên môn của ngành GTVT hai tỉnh cận kề đã tập trung trí tuệ để chọn vị trí thấp nhất trên dãy núi Hòn Giao làm nơi tuyến đường vượt qua nhằm đảm bảo được tiêu chuẩn tối ưu về kinh tế, kỹ thuật, cảnh quan, môi trường và đặc biệt là an toàn giao thông. Câu trả lời về vị trí thấp nhất ấy là eo Hòn Giao của dãy núi Hòn Giao, cao 1650 m, là eo thấp nhất dành cho tuyến đường ngắn nhất. Đó cũng là “tâm điểm” số một mà rất nhiều đại biểu trong cuộc họp tại Buôn Ma Thuột năm nào đã quan tâm đến. Những đại biểu này phần lớn là những sĩ quan, cựu sĩ quan quân đội ta, rất thông thạo địa hình vùng đất này theo đó thì dãy núi Hòn Giao y hệt như bức tường thành, dựng đứng, khổng lồ, cao vời vợi, chạy hướng Bắc Nam, làm nên ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh tinh Tây Nguyên và duyên hải. Eo Hòn Giao cao 1650m là eo thấp nhất của dãy Hồn Giao, tọa lạc nên thơ giữa hai đỉnh núi cao vời vợi, đó là đỉnh Hòn Giao (2010m) và đỉnh Gia Rích (1923m). Gần đó là hai đỉnh Gia Lô (1812m) và Gia Ray (2287m), cao hơn đỉnh Lang Biang (2163m) là trung tâm của cao nguyên Lang Biang. Có đại biểu còn ví von rằng, trên lãnh thổ Việt Nam (tại thời điểm đó) chưa hề có đường đèo nào vượt qua được cốt eo Hòn Giao. Ngày trước, người Pháp xây dựng đèo Prenn (QL20) lên Đà Lạt, được tiếng là đèo cao nhất nước, nhưng Đà Lạt cũng chỉ ở cốt bình quân 1500. Bạn tôi lại tìm ra được đường ô tô lên đỉnh Lang Biang (2.163m) tạm coi là đèo cao nhất nước, nhưng tuyến đường đó là đường chuyên dùng, ngoại lệ, không phù hợp với tiêu chuẩn đường bộ Việt Nam, chỉ dùng cho xe chuyên dùng, loại nhỏ, hai cầu. Vậy là eo Hòn Giao vẫn là eo cao nhất nước, thuộc “eo vương” việt Nam rồi. Có lẽ đó là nguyên nhân chính, kết hợp với địa hình khu vực, dẫn đến việc người Pháp chưa dám chạm đến tuyến đường này. Từ đó, tuyến Nha Trang – Đà Lạt buộc phải xây dựng sau 8 tuyến đường đã vươn lên Tây Nguyên.